Thứ Tư, 31 tháng 3, 2010

THỰC TIỄN XÉT XỬ: TPHCM ÁN TỒN NHIỀU DO QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT KHÔNG PHÙ HỢP

THANH LƯU

Ngày 25-6 – 2009, báo cáo với Ban Pháp chế HĐND TP.HCM, Phó Chánh án TAND TP Trần Văn Sự cho biết trong sáu tháng đầu năm nay, toàn ngành đã giải quyết gần 1.300 vụ án quá hạn nhưng vẫn còn 915 vụ các loại, trong đó nhiều nhất là án dân sự (gần 700 vụ).

Theo ông Sự, nguyên nhân là do tính chất, mức độ của các vụ án ngày càng phức tạp nhưng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn chuẩn bị xét xử quá ngắn, không còn phù hợp với thực tế. Điển hình như các tranh chấp đòi bảo hiểm xã hội. Người sử dụng lao động thường nợ bảo hiểm xã hội kéo dài, tiền lương của người lao động có nhiều biến động, doanh nghiệp ngừng hoạt động và đa số chủ doanh nghiệp đã bỏ trốn ra nước ngoài. Cạnh đó còn một số nguyên nhân khác như tài sản tranh chấp ở nhiều nơi, bị đơn không hợp tác với tòa… Các cơ quan có thẩm quyền chậm trả lời xác minh của tòa mặc dù tòa đã có công văn nhắc nhở nhiều lần. Đối với những trường hợp tranh chấp tài sản là nhà đất, khi định giá thường gặp khó khăn và mất nhiều thời gian…

Riêng các vụ án hình sự quá hạn không nhiều (54 vụ). Nguyên nhân thường do các vụ án có nhiều bị cáo, trong đó có các bị cáo đang tạm giam ở một vụ án khác, đang thi hành án ở tỉnh xa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc bị cáo tại ngoại không đến. Có trường hợp luật sư xin hoãn xử vì bận tham gia tố tụng ở vụ khác.

Theo Chánh tòa hình sự TAND Nguyễn Đức Sáu, sắp tới TAND TP sẽ đưa ra xét xử những vụ án trọng điểm như vụ "kỳ án" Đặng Nam Trung, vụ Gò Môn, vụ đài Quán Tre…

Về án bị hủy sửa, trong sáu tháng đầu năm, TAND TP đã chuyển hơn 200 vụ án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị đến Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM. Tòa đã nhận được kết quả giải quyết hơn 260 vụ (có cả những vụ giải quyết năm 2008), trong đó án bị hủy 37 vụ, án sửa do lỗi của cấp sơ thẩm và do tình tiết mới tổng cộng 67 vụ, đình chỉ 15 vụ và tạm đình chỉ hai vụ.

Nguyên nhân của các bản án bị hủy, sửa chủ yếu là do vi phạm tố tụng như thu thập chứng cứ chưa đầy đủ; triệu tập thiếu người tham gia tố tụng; xác định sai tư cách người tham gia tố tụng; xét xử vắng mặt đương sự không hợp lệ; hội thẩm nhân dân tham gia xét xử hai lần cùng một vụ án… Ngoài ra còn có các lý do như quan điểm đánh giá chứng cứ của các cấp tòa khác nhau, nhất là khi pháp luật chưa quy định về việc đánh giá chứng cứ theo thứ bậc, dẫn đến việc mỗi tòa có một nhận định khác nhau. Một số vướng mắc về nghiệp vụ chưa được hướng dẫn kịp thời của TAND tối cao mặc dù đã có văn bản kiến nghị.

Nhìn chung, án bị hủy, sửa một phần là do thiếu sót chủ quan của thẩm phán, đồng thời cũng có những nguyên nhân khách quan như do áp lực công việc, chạy theo chỉ tiêu.

Một khó khăn khác là biên chế phân bố chưa đủ để đáp ứng với số lượng công việc. Lượng án mỗi thẩm phán phải thụ lý giải quyết hằng tháng trung bình lên tới 10 vụ. Điều này gây áp lực rất lớn cho thẩm phán về giải quyết án và hoàn thành chỉ tiêu thi đua.

SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM

Trích dẫn từ: http://www.phapluattp.vn/news/toa-an/view.aspx?news_id=259173

PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC THÔNG TIN CỦA CÔNG DÂN VÀ VIỆC XÂY DỰNG LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN

GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Ở nước ta, Điều 69 của Hiến pháp 1992 có quy định về quyền được thông tin của công dân. Theo quy định trong Công ước về quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc – Việt Nam đã tham gia Công ước này – quyền được thông tin là quyền con người, là một phần của quyền tự do ngôn luận. Trên thế giới, nhiều nước đã có luật về quyền được thông tin từ hàng trăm năm trước1. Việt Nam, do những điều kiện khách quan và chủ quan, gần đây, chúng ta mới quan tâm đến việc xây dựng đạo luật này. Việc xây dựng Luật Tiếp cận thông tin là một bước tiến quan trọng để người dân thực hiện quyền hiến định của mình.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, đất nước ta bước vào thời kỳ kháng chiến chống ngoại xâm. Trong các cuộc kháng chiến, bảo mật thông tin luôn là một trong những yêu cầu quan trọng. Các phong trào không nói, không biết, không tin trong những giai đoạn kháng chiến được coi là "kế sách kháng chiến". Rồi trong thời kỳ nền kinh tế được điều hành theo cơ chế tập trung, bao cấp, chúng ta cũng chỉ có thông tin từ một phía. Trong các giai đoạn lịch sử ấy, hầu như chỉ có luồng thông tin tuyên truyền một chiều từ Trung ương, Nhà nước xuống cho người dân. Người dân luôn là người bị động, chỉ tiếp thu các nguồn thông tin chính thức của Nhà nước.

Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đã giúp xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với bối cảnh mới của nền kinh tế – xã hội đất nước. Trong hệ thống pháp luật ấy, các quy định về công khai thông tin, về quyền được thông tin của người dân đã được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật như Hiến pháp 1992, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Báo chí, Luật Kiểm toán nhà nước, Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở… Tuy nhiên, phải nhận thấy là, các quy định về nội dung này còn chung chung, chưa làm rõ trách nhiệm khi quyền tiếp cận thông tin của người dân không được tôn trọng.

Điểm rất thiếu của các quy định trên là vắng bóng các thủ tục thực hiện các quyền và trách nhiệm cung cấp thông tin, như hình thức yêu cầu tiếp cận, hình thức cung cấp thông tin và thời hạn thực hiện chúng… Thiếu các quy định về thủ tục, thì các quy định về nội dung khó có thể thực thi được trên thực tế. Cũng vì vậy mà việc thực thi quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam còn nhiều hạn chế.

Theo các quy định của pháp luật hiện hành, công dân có quyền được thông tin qua báo chí về mọi mặt; được gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm về nội dung thông tin; được phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.

Các cơ quan báo chí có trách nhiệm: đăng, phát sóng tác phẩm, kiến nghị của công dân; trong trường hợp không đăng hay phát sóng thì phải trả lời và nói rõ lý do; trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trả lời trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; cung cấp thông tin cho báo chí vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của các cơ quan và công chức nhà nước.

Chính quyền cơ sở phải có trách nhiệm công khai kế hoạch kinh tế – xã hội, phương án cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm; công khai các dự án đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư; quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.

Pháp lệnh về dân chủ ở cơ sở quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức của chính quyền cấp cơ sở trong việc cung cấp các loại thông tin như sau: việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ; các khoản huy động đóng góp; chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân; điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết tiêu cực, tham nhũng ở xã, thôn, tổ dân phố; kết quả bỏ phiếu tín nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã; kết quả tiếp thu ý kiến đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của xã; đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã thu; các quy định pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết công việc liên quan; và những nội dung khác.

Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền công bố công khai danh mục các dự án phát triển nhà ở thương mại trong từng thời kỳ trên phạm vi địa bàn… để người dân có điều kiện được tiếp cận. Cơ quan, tổ chức, cơ quan báo chí có quyền yêu cầu cơ quan tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin.

Trong thời hạn 10 ngày, cơ quan tổ chức và cá nhân được yêu cầu cung cấp thông tin phải cung cấp thông tin; không cung cấp, chưa cung cấp thì phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lý do.

Quyền tiếp cận thông tin là thứ quyền khá nhạy cảm. Thông tin – về nguyên tắc – là phải có tính chất "mở", đầu tiên là Chính phủ phải "mở", cơ cấu tổ chức phải "mở", các quyết định phải "mở" để mọi người đều biết và dễ tiếp cận khi cần thiết. Quyền lực nhà nước ta được tổ chức theo ba nhánh: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong đó, trong hành pháp là đang thiếu sự "mở" bởi chúng ta hoạt động vẫn theo cơ chế thủ trưởng, quyết định được đưa ra không có sự bàn bạc hoặc có bàn bạc đi chăng nữa, thì khi quyết định, người Thủ trưởng vẫn là người phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân.

Trên thế giới, khi nói đến tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý của Nhà nước thì cũng phải nói đến các bí mật quốc gia. Chúng ta đã có Pháp lệnh về bí mật nhà nước, có các văn bản dưới luật hướng dẫn rất cụ thể để các cơ quan nhà nước thực hiện sự giữ gìn bí mật nhà nước. Điều đáng nói ở đây là những nội dung gì được đưa vào danh mục bí mật nhà nước đều do chính các cơ quan nhà nước đề xuất và thực hiện. Điều này dẫn đến một hệ luỵ là, các cơ quan nhà nước sẽ không ngần ngại quy định một cách tràn lan những vấn đề cần phải bảo mật của họ với lập luận "cẩn tắc vô áy náy". Phải nói một cách công bằng là lập luận này đã thành một thói quen trong công việc của công chức nhiều cơ quan nhà nước.

Pháp lệnh về bí mật nhà nước chắc chắn gây khó khăn cho việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nhưng nó không thể không có vì những lợi ích lớn hơn. Điều đáng nói là, dựa vào Pháp lệnh, nhiều người giữ thông tin nhà nước đã tìm cách bưng bít thông tin. Động cơ của hành vi này rất khác nhau, có người bưng bít để vụ lợi cho chính bản thân và người thân của mình, có người lại bưng bít để dễ dàng hơn trong việc thực hiện các nhiệm vụ thuộc chức năng của mình. Có người bưng bít thông tin chỉ vì là thói quen…

Hiện nay, việc bưng bít thông tin diễn ra rõ nhất trên các lĩnh vực đất đai, đền bù giải tỏa, các dự án ưu đãi, các bản quy hoạch… Lòng dân không an vì tệ tham nhũng, vì không có thông tin hay cơ hội phát biểu chính kiến về các vấn đề họ đang gặp phải. Khiếu nại, tố cáo không ngừng nghỉ, nhiều nhất là các khiếu nại về đất đai. Mà nguyên nhân chủ yếu của các vụ khiếu nại đất đai là do chính quyền không thông tin đầy đủ đến người dân. Bưng bít thông tin như thế gây nên tình trạng bất bình đẳng về thông tin và có thể sẽ dẫn đến tình trạng bất bình đẳng về tài sản. Ví dụ, quy hoạch đất đai không công khai, minh bạch nên nhiều đối tượng sẽ trục lợi từ việc này, còn người thiếu thông tin sẽ bị thiệt hại.

Từ thực trạng pháp luật như vậy, nên việc xây dựng Luật Tiếp cận thông tin là một yêu cầu cấp thiết. Nắm được thông tin và xử lý thông tin là những điều kiện quan trọng để thực thi quyền lực, dù đó là quyền lực của Nhà nước hay quyền hiến định của các công dân. Luật Tiếp cận thông tin sẽ tạo một thói quen mới trong quá trình tiếp cận thông tin của người dân và của toàn xã hội. Thói quen cung cấp thông tin, đón nhận thông tin phản hồi, xử lý chính xác các thông tin mình có là các thói quen tốt của xã hội dân sự. Luật Tiếp cận thông tin cũng sẽ là một phương tiện hữu hiệu để đảm bảo nguyên tắc hoạt động quyền lực Nhà nước "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".

Tuy nhiên, xây dựng Luật Tiếp cận thông tin không hề đơn giản. Một trong những điểm khó khăn nhất chính là việc xác định ranh giới giữa những cái được xác định là "mật" và "không mật". Cố gắng hết sức để tránh tình trạng cái cần công khai lại bị giữ bí mật (như quy hoạch đô thị, phương án bồi thường đất đai bị giữ bí mật nên nhiều người được lợi và nhiều người bị thiệt không chính đáng), hoặc những thông tin đang trong giai đoạn phải giữ bí mật thì lại cho công khai, tạo thành dư luận xã hội, gây ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của các cơ quan công quyền (nhất là quá trình tố tụng).

Báo chí là một kênh để người dân tiếp cận thông tin. Bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của báo chí cũng là bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công chúng. Nhưng cần thiết phải có những quy định cụ thể loại thông tin, tài liệu nào cần được công khai, loại thông tin, tài liệu nào là mật. Không thể có chuyện bất cứ thông tin nào mà cơ quan nhà nước nếu không muốn cho người dân biết thì cũng có thể đóng dấu "mật" và ngược lại, báo chí lại tự do đưa các thông tin mật hay chưa được phép công bố lên mặt báo.

Luật Tiếp cận thông tin sẽ quy định cụ thể các thủ tục làm việc với công chức chính quyền, với các cơ quan nhà nước để người dân có được các thông tin mình cần, không còn lúng túng hay phải chứng kiến thái độ "đùn đẩy", "hách dịch" của các công chức.

Luật Tiếp cận thông tin cũng phải đặt ra trách nhiệm của công chức trong việc cung cấp thông tin. Nếu công chức – trong thẩm quyn của mình – không cung cấp, cung cấp thông tin sai hoặc không đúng hạn theo yêu cầu hợp pháp của công dân thì công chức đó phải chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước, thậm chí có thể phải ra tòa án khi bị công dân kiện. Và không đơn giản chỉ dừng lại ở việc từ chức, bãi nhiệm, bãi miễn… mà có thể phải lãnh án, tùy mức độ nặng nhẹ.

Minh bạch thông tin là yêu cầu cấp thiết trong một xã hội văn minh. Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ chế tiếp cận thông tin là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, lạm quyền. Trong Luật Tiếp cận thông tin, quyền được thông tin của công dân phải được quy định cụ thể thành trình tự, thủ tục bảo đảm quyền được biết, quyền được nhận, quyền được tiếp cận và quyền được phổ biến, được chia sẻ thông tin một cách tự do. Như vậy, xây dựng Luật Tiếp cận thông tin là một bước hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật, nhằm bảo đảm thực hiện các quyền công dân một cách tốt hơn.

(1) Thụy Điển đã có luật về quyền được thông tin cách đây 300 năm.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/van-hoa-xa-hoi/phap-luat-ve-bao-111am-quyen-111uoc-thong-tin-cua-cong-dan-va-viec-xay-dung-luat-tiep-can-thong-tin

PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM – QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA

PGS.TS. PHẠM DUY NGHĨA – KHOA LUẬT, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

1. Giới thiệu.

2. Quá trình phát triển pháp luật trọng tài ở Việt Nam.

3. Đánh giá Pháp lệnh Trọng tài 2003: Thành tựu và hạn chế.

4. Các vấn đề gây tranh cãi và đề xuất phương án giải quyết trong Dự thảo Luật Trọng tài.

5. Kết luận.

I. Giới thiệu

Hiện nay, Luật Trọng tài đang được soạn thảo và sẽ có hiệu lực vào cuối năm 2010 nếu được Quốc hội thông qua vào kỳ họp mùa thu năm 2009. Theo truyền thống làm luật tại Việt Nam, một Ban Soạn thảo gồm 7 thành viên đã được thành lập. Thành viên của Ban Soạn thảo là các quan chức cao cấp, bao gồm Thứ trưởng các Bộ Tư pháp, Công Thương, Phó chánh án Toà án nhân dân tối cao, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam [1]. Ban Soạn thảo có trách nhiệm soạn thảo một dự luật với các vấn đề pháp lý quan trọng về trọng tài, lấy ý kiến công chúng và trình Dự thảo cho các Uỷ ban liên quan của Quốc hội trước khi được thảo luận và thông qua tại phiên họp toàn thể của Quốc hội.

Nhằm phục vụ cho công việc của Ban soạn thảo, một nhóm chuyên gia đã được Hội Luật gia Việt Nam thành lập để tiến hành nghiên cứu pháp luật về trọng tài thương mại hiện hành của Việt Nam, thu thập và phân tích kinh nghiệm quốc tế và nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật trọng tài nhằm soạn thảo dự thảo thứ nhất của Luật Trọng tài. Chúng tôi đã thu thập văn bản pháp luật về trọng tài của 80 quốc gia trên thế giới, chúng tôi đã nghiên cứu Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế [2], chúng tôi đã tổ chức ít nhất 5 cuộc hội thảo quốc gia ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố khác để lấy ý kiến các chuyên gia pháp luật và các doanh nhân trên toàn quốc về Dự thảo Luật Trọng tài.

Dự thảo được đưa ra thảo luận tại cuộc hội thảo quốc tế lần này phản ánh kết quả nghiên cứu ban đầu của chúng tôi trong việc đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về trọng tài thương mại, lựa chọn những kinh nghiệm quốc tế và nước ngoài phù hợp nhất để đưa vào Dự luật này. Chúng tôi hoàn toàn hiểu rằng đây mới chỉ là công việc mang tính lý thuyết, một bước khởi đầu dễ dàng vì Dự luật phải trải qua một quy trình pháp lý phức tạp mới được thông qua. Nhằm chuyển tải thành công pháp luật trọng tài các nước vào bối cảnh pháp lý của Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm. Tuy nhiên, điều đặc biệt quan trọng là đây phải là một Dự luật tiến bộ, phù hợp đến mức cao nhất với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hoá của Việt Nam. Điều đó sẽ giúp giải quyết các tranh chấp thương mại một cách công bằng và hiệu quả, giảm bớt gánh nặng công việc cho Toà án và xa hơn là cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam theo hướng minh bạch, an toàn và dễ dự đoán hơn. Bài viết này sẽ tập trung vào các vấn đề chính sách mà chúng tôi dự định đưa vào Dự thảo Luật Trọng tài. Sau phần giới thiệu, tôi sẽ điểm qua quá trình phát triển của pháp luật trọng tài để bạn đọc nắm được một cách tổng quát về lịch sử của pháp luật trọng tài ở Việt Nam. Pháp lệnh Trọng tài 2003 hiện hành sẽ được đánh giá một cách ngắn gọn nhằm nêu bật những thành tựu chính cũng như những hạn chế cơ bản. Sau đó trong khi tập trung vào các vấn đề pháp lý chính đang gây tranh cãi chúng tôi sẽ đề xuất các phương án giải quyết trong Dự thảo Luật Trọng tài và kết thúc bài viết với một số bình luận về tình hình soạn thảo Dự luật hiện nay.

II. Quá trình phát triển của pháp luật trọng tài Việt Nam

Giải quyết tranh chấp dưới ảnh hưởng của gia đình, họ hàng, bạn bè, sử dụng tập quán và các mối quan hệ để giảm bớt tranh chấp và hy vọng tìm ra giải pháp khi phát sinh tranh chấp đã là hình thức quen thuộc trong xã hội Việt Nam từ rất sớm. Tuy nhiên, trọng tài với tư cách là một thiết chế được thừa nhận rộng rãi để giải quyết các tranh chấp cá nhân thì xuất hiện muộn hơn nhiều vào thế kỷ XIX, bởi vì tài liệu sớm nhất được tìm thấy là một quyết định của Toà Phúc thẩm Sài Gòn vào ngày 8/7/1989, trong đó công nhận một thoả thuận về việc lựa chọn một người nước ngoài làm trọng tài trong một vụ tranh chấp đất đai trong vụ Dương Thị Lành kiện Võ Văn Thụ [3].

Trích dẫn vụ án này, tôi muốn nhắc đến "di sản pháp luật dân sự" mà Việt Nam có thể có bởi vì sau đó nước ta rơi vào ách thống trị của Pháp và do vậy có cơ hội, hoặc ít nhất là một sự kiện, vào hơn một thế kỷ trước để tiếp thu hệ thống pháp luật dân sự và thương mại của Pháp. Một số Bộ luật Dân sự và Tố tụng dân sự tiến bộ đã được ban hành ở ba miền của Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và 3 thập kỷ đầu thế kỷ 20. Bên cạnh hệ thống tư pháp truyền thống, các toà án thương mại đã được thành lập ở các thành phố lớn của Việt Nam (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Sài Gòn). Các quy tắc về trọng tài đã là một phần của các Bộ luật Tố tụng dân sự phức tạp.

Tuy nhiên, các quy tắc này dường như không mấy tác động đến xã hội Việt Nam bởi vì thực dân Pháp kiểm soát hầu hết nền công nghiệp và thương mại, chỉ có một số ít người Trung Quốc làm môi giới trong lĩnh vực phân phối còn đa số người Việt Nam chỉ làm việc với tư cách là nông dân, thợ thủ công hoặc người bán hàng nhỏ ở các thành phố. Họ không có cơ hội biết đến khái niệm trọng tài.

Chẳng có gì là ngạc nhiên khi người Pháp ra đi thì "di sản pháp luật dân sự" cũng mất đi, đầu tiên là ở Miền Bắc, sau đó là toàn bộ Việt Nam. Gia nhập khối XHCN, Việt Nam đưa ra khái niệm "pháp chế XHCN" theo lăng kính của Trung Quốc những năm 60 và sau đó trực tiếp từ Liên Xô cũ vào những năm 70. Hệ thống toà án thông thường được thay thế bằng hệ thống toà án nhân dân, được tổ chức theo thứ bậc của bộ máy Nhà nước, từ quận huyện, tỉnh thành đến Trung ương, mỗi cấp đều có Toà án tương ứng. Các thoả thuận tư về trọng tài và thi hành phán quyết trọng tài, mặc dù đã tồn tại dưới thời thuộc địa, trở nên vắng bóng, ít nhất là đối với các cá nhân. Phục vụ cho quan hệ với khối XHCN, Uỷ ban Trọng tài Ngoại thương và Uỷ ban Trọng tài Hàng hải đã được thành lập vào năm 1963 và 1964. Để giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp nhà nước với các thực thể XHCN khác, một hệ thống "trọng tài kinh tế", theo mô hình pháp luật kinh tế của Liên Xô cũ đã được thành lập từ quận huyện, tỉnh thành đến trung ương. Tên gọi của loại hình này có thể gây nhầm lẫn nhưng thực tế thì "trọng tài kinh tế" không thực sự là trọng tài. Đó là một loại cơ quan hành chính Nhà nước để giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các doanh nghiệp Nhà nước. Toà án nhân dân không có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp giữa doanh nghiệp Nhà nước này mà chỉ giải quyết các tranh chấp dân sự giữa các cá nhân với nhau, chủ yếu là vấn đề hôn nhân gia đình hoặc tranh chấp liên quan đến hàng hoá với mục đích để sử dụng cá nhân và tiêu dùng. Tài sản cá nhân đặc biệt là tài sản cá nhân là tư liệu sản xuất không được thừa nhận trong trật tự kinh tế XHCN.

Hệ thống cứng nhắc này đã được tự do hoá dần dần kể từ khi Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hệ thống "trọng tài kinh tế" được huỷ bỏ vào năm 1994 và một nhánh mới trong hệ thống toà án nhân dân với tên gọi toà án kinh tế được thành lập ở cấp tỉnh và cấp trung ương để giải quyết các "tranh chấp kinh tế" được định nghĩa là tranh chấp giữa các doanh nhân nhằm phân biệt với các tranh chấp dân sự giữa các cá nhân. Cũng tại thời điểm đó, một Nghị định của Chính phủ được ban hành cho phép thành lập các "Trung tâm trọng tài kinh tế" [4]. Đây là tín hiệu đầu tiên nhằm thừa nhận loại hình trọng tài theo ý nghĩa đã được thừa nhận trong bản án của toà án Sài Gòn trước đây. Thành công của Nghị định số 116/CP này rất hạn chế nếu không muốn nói là một sự thất bại trong việc đưa ra một hệ thống trọng tài hiện đại. Bên cạnh Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam [5], có 5 Trung tâm trọng tài kinh tế khác được thành lập ở Hà Nội, Bắc Ninh, TP Hồ Chí Minh mà hoạt động thực tiễn của các Trung tâm này rất hạn chế [6].

Thay thế Nghị định nói trên, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài 2003 có hiệu lực thi hành vào 01/7/2003 [7]. Triển khai Pháp lệnh này, con số các trung tâm trọng tài thương mại đã tăng từ 5 lên 8 trung tâm [8] trong đó Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC vẫn là trung tâm trọng tài quan trọng nhất ở Việt Nam, xét xử khoảng 20 vụ một năm[9].

III. Đánh giá pháp luật trọng tài 2003 – Thành tựu và hạn chế

Với 8 Chương và 63 Điều, Pháp lệnh Trọng tài 2003 là một bước tiến quan trọng ghi nhận các nguyên tắc và quy định về trọng tài được cộng đồng quốc tế thừa nhận [10]. Pháp lệnh quy định các bên có quyền tự do ký kết các thoả thuận trọng tài để chọn trọng tài làm phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh (các Điều 2, 3, 5, 9). Pháp lệnh công nhận: "phán quyết trọng tài là chung thẩm và có giá trị ràng buộc các bên liên quan trừ trường hợp bị toà án tuyên bố vô hiệu theo quy định của Pháp lệnh này" (Điều 2). Pháp lệnh cũng quy định những nguyên tắc cơ bản trong việc thành lập và hoạt động của các trung tâm trọng tài, về tố tụng trọng tài và các trường hợp toà án huỷ phán quyết trọng tài. Theo hiểu biết của chúng tôi thì Pháp lệnh Trọng tài 2003, ít nhất là ở mức độ so sánh câu chữ, chủ yếu dựa trên mô hình của Luật mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế ngày 21/6/1985. Pháp lệnh đưa ra định nghĩa về "thương mại" giống như Chú thích số 2 của Luật mẫu 1985 (xem Điều 2.3 Pháp lệnh), quy định về thành phần hội đồng trọng tài và tiến hành tố tụng trọng tài của Pháp lệnh Trọng tài 2003 và Luật mẫu 1985 gần giống nhau.

Từ góc độ thực tiễn, Pháp lệnh Trọng tài 2003 quy định những cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động của các trung tâm trọng tài, đặc biệt là VIAC với tư cách là thiết chế trọng tài quan trọng nhất ở Việt Nam. Các vụ việc do VIAC xét xử từ 2004 ngày càng tăng lên về số lượng cũng như giá trị và mức độ phức tạp của tranh chấp. Bên cạnh đó, Pháp lệnh 2003 còn góp phần nâng cao nhận thức của công chúng về trọng tài và hoạt động trọng tài trên toàn quốc. VIAC đã tổ chức hàng chục hội thảo và tập huấn nhằm giới thiệu về trọng tài do cộng đồng doanh nghiệp. Công chúng cũng quan tâm nhiều hơn về trọng tài và các doanh nghiệp bắt đầu tìm ý kiến tư vấn về việc đưa điều khoản trọng tài vào trong các hợp đồng thương mại của mình.

Bên cạnh sự cần thiết phải hoàn thiện và làm rõ một quy định còn hạn chế, nhằm mục đích tạo ra các quy định hiệu lực và hiệu quả hơn về trọng tài, cần tập trung vào 3 điểm hạn chế trong Pháp lệnh Trọng tài 2003 như sau:

1. Phạm vi tranh chấp không rõ ràng

Pháp lệnh 2003 vẫn phân biệt giữa các tranh chấp kinh tế, thương mại với các tranh chấp dân sự hay tiêu dùng. Với định nghĩa mở và lỏng lẻo tại Điều 2.3, VIAC và các trung tâm trọng tài khác không đủ tự tin để thụ lý các tranh chấp ở phạm vi rộng hơn như là các tranh chấp về chứng khoán, tranh chấp giữa các cổ đông, liên danh hoặc thành viên công ty. Nếu sau này toà án không chấp nhận đây là các tranh chấp thương mại thì toà án có thể huỷ phán quyết trọng tài. Điểm không rõ ràng này cũng có tác động đến việc công nhận phán quyết trọng tài nước ngoài ở Việt Nam. Trong một vụ án liên quan đến sân gôn, toà án không công nhận việc duy tu thảm cỏ sân gôn là hành vi thương mại và do đó không chấp nhận thẩm quyền xét xử của trọng tài với vụ án này (xem các lý do huỷ phán quyết trọng tài tại Điều 54.4 của Pháp lệnh 2003).

2. Hiệu lực pháp lý của phán quyết trọng tài không rõ ràng

Mặc dù quy định phán quyết trọng tài là chung thẩm và mang tính ràng buộc (Điều 6), tuy nhiên trong Chương VI của Pháp lệnh Trọng tài 2003 có quy định về quyền yêu cầu toà án huỷ phán quyết trọng tài nếu một bên tranh chấp không đồng ý với phán quyết đó (Điều 50 Pháp lệnh). Trong thực tế, quy định này trong hầu hết các trường hợp giúp cho bên thua kiện, ít nhất là có cơ hội trì hoãn việc thi hành phán quyết trọng tài bằng việc khởi kiện về giá trị pháp lý của phán quyết đó. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, toà án có quyền xem xét rất nhiều lý do để huỷ phán quyết trọng tài được quy định tài Điều 54 Pháp lệnh Trọng tài 2003. Các lý do này được liệt kê một cách rộng rãi, kể cả bao gồm trường hợp liên quan đến một khái niệm có nội hàm không rõ ràng là "thương mại" như đã đề cập tức là khi tranh chấp không phải là "thương mại" thì thoả thuận trọng tài sẽ vô hiệu (xem Điều 54.2 và so sánh với Điều 10, đặc biệt là khoản 4 Pháp lệnh Trọng tài 2003).

Thông thường, khi điều khoản về thoả thuận trọng tài không chỉ rõ tên gọi đầy đủ, chính xác của trung tâm trọng tài (như là trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam hoặc của Việt Nam…), toà án có thể quyết định rằng điều khoản này là vô hiệu theo quy định tại Điều 10.1 Pháp lệnh Trọng tài 2003.

3. Sự hỗ trợ của toà án trong việc thu thập chứng cứ và áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là chưa hiệu quả

Thu thập chứng cứ và áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là rất quan trọng trong hầu hết các trường hợp. Kiểm kê và niêm phong, cấm chuyển nhượng hoặc thay đổi tình trạng hiện tại của tài sản tranh chấp đối với nguyên đơn nhiều khi còn quan trọng và giá trị hơn cả phán quyết cuối cùng. Điều 32 và 33 của Pháp lệnh Trọng tài 2003 thiếu chi tiết và rõ ràng về vấn đề này. Trọng tài viên không thể ra lệnh cho một bên thứ ba, đặc biệt là các cơ quan Nhà nước phải cung cấp chứng cứ cũng như không thể ra lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nghĩa vụ của toà án, trong thời hạn pháp luật quy định, là phải có hành động can thiệp thích hợp nhưng vấn đề này chưa được quy định thích đáng trong Pháp lệnh Trọng tài 200312.

Bản Dự thảo Luật Trọng tài lần thứ nhất (Dự thảo 0) do nhóm chuyên gia của Hội Luật gia Việt Nam đưa ra để thảo luận đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện Pháp lệnh Trọng tài 2003 hiện hành. Chúng tôi đã nỗ lực hoàn thiện lời văn dự thảo và sửa đổi các vấn đề chính sách pháp lý để khắc phục những điểm yếu và hạn chế của Pháp lệnh [11].

IV. Các vấn đề gây tranh cãi và ĐỀ XUẤT phương án giải quyết trong dự thảo luật trọng tài

Trong quá trình soạn thảo Luật Trọng tài, chúng tôi đã bổ sung một số quy định mới nhằm bảo vệ quyền tự do thoả thuận điều khoản trọng tài của các bên, hạn chế sự can thiệp của toà án vào tố tụng trọng tài cũng như tăng cường sự hỗ trợ của các toà án với hoạt động trọng tài. Một lần nữa, chúng tôi muốn nhắc lại rằng trọng tài không thể hoạt động tốt nếu như thiếu sự hỗ trợ từ toà án. Chúng tôi hiểu rằng chính sách mới về trọng tài cần sự ủng hộ mạnh mẽ của hệ thống tư pháp hiện hành ở Việt Nam. Đây là một công việc khó khăn bởi vì trọng tài vẫn còn là một hiện tượng mới mẻ trong xã hội Việt Nam, sự tín nhiệm của hệ thống tư pháp và nhân dân với trọng tài cần có thời gian để xây dựng và củng cố. Hơn nữa, mở rộng thẩm quyền xét xử của trọng tài và tăng cường nghĩa vụ giúp đỡ trọng tài của toà án, dưới một góc độ nào đó cũng có nghĩa là hạn chế quyền lực hiện hành của toà án. Vấn đề gây tranh cãi này có lẽ là khó giải quyết nhất mà Ban Soạn thảo phải tìm kiếm sự đồng thuận rộng rãi hơn trong xã hội và từ các cơ quan, tổ chức liên quan trong quá trình làm Luật.

Để tiếp tục tranh luận, chúng tôi sẽ nêu ra một số vấn dề gây tranh cãi dưới đây. Các điều khoản trích dẫn dưới đây, trước khi được nêu khác, là dẫn chứng đến Dự thảo số 0 của Luật Trọng tài do Hội luật gia VN đưa ra để thảo luận.

1. Phạm vi thẩm quyền xét xử của trọng tài

Ban Soạn thảo được giao nhiệm vụ soạn thảo Dự thảo Luật Trọng tài. Sau khi tiến hành nghiên cứu pháp luật của hơn 80 quốc gia trên thế giới, chúng tôi đi đến kết luận rằng hầu hết pháp luật các nước đều không phân biệt rõ các tranh chấp thương mại và tranh chấp phi thương mại. Ngoài ra, khái niệm "thương mại" quy định tại Chú thích 2 của Luật mẫu 1985 không phải là một danh sách liệt kê toàn bộ các hành vi thương mại. Trên thực tế, rất khó phân biệt giữa hành vi thương mại và phi thương mại. Sự không rõ ràng này có thể sẽ bị toà án lạm dụng. Vì vậy chúng tôi đề nghị là tên gọi của Dự thảo sẽ là Luật Trọng tài (chứ không phải Luật Trọng tài thương mại) áp dụng để giải quyết bất kỳ tranh chấp nào do các bên thoả thuận trong khuôn khổ quy định của pháp luật.

Sự thay đổi này sẽ làm tăng thêm nhiệm vụ chính trị của Ban Soạn thảo và mở rộng thẩm quyền xét xử của trọng tài đối với các tranh chấp phi thương mại. Tuy nhiên, chúng tôi không rõ là vai trò của trọng tài đối với đời sống riêng tư của các cá nhân ở các quốc gia khác như thế nào. Rõ ràng là trọng tài rất quan trọng đối với doanh nhân nhưng chúng tôi cần hiểu là sự thay đổi này sẽ có ảnh hưởng đến các giao dịch giữa các cá nhân và giao dịch của người tiêu dùng ở mức độ nào.

2. Cách tiếp cận chọn bỏ (negative list)

Chúng tôi đề xuất mở rộng phạm vi xét xử của trọng tài không chỉ giới hạn ở quan hệ hợp đồng mà còn áp dụng cho bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (xem Điều 2.2 và 17 của Dự thảo Luật Trọng tài). Chỉ có 2 loại tranh chấp không thuộc thẩm quyền xét xử của trọng tài là các tranh chấp liên quan đến các quyền cá nhân, bao gồm các vấn đề hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính liên quan. Có một số quan ngại về các tranh chấp lao động và tranh chấp đất đai mà có thể cần điều chỉnh bằng các quy định đặc biệt.

3. Tranh chấp giữa nhà đầu tư và cơ quan Nhà nước

Các quy định liên quan của Luật Đầu tư 2005 sẽ áp dụng, ví dụ như quy định về việc tranh chấp giữa nhà đầu tư và cơ quan Nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến đầu tư có thể do trọng tài xét xử (xem Điều 12 Luật Đầu tư 2005 và Đièu 17.2 Dự thảo Luật Trọng tài. Tổ chức USAID có quan điểm cho rằng Điều 17.2 nên mở rộng phạm xi xét xử của trọng tài đối với các tranh chấp hành chính. Quan điểm cá nhân tôi là đề nghị này đã đi quá xa và không mang tính hiện thực, ít nhất là tại thời điểm này.

4. Quyền của người tiêu dùng trong việc từ chối điều khoản trọng tài

Điều 16 Dự thảo Luật Trọng tài đưa ra các hình thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng với giả định rằng người tiêu dùng sẽ ở vị thế bất lợi và bị lạm dụng đối với các điều kiện và điều khoản trong các hợp đồng in sẵn của người bán hàng hoặc nhà cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cần nghiên cứu các phương thức tốt hơn và hiệu quả hơn để bảo vệ người tiêu dùng.

5. Trọng tài nước ngoài: Có giá trị ràng buộc hay công nhận?

Điều 13.3 Dự thảo Luật Trọng tài đề cập đến một thực tế là Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 của Việt Nam đã có quy định khác nhau về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài trong nước và phán quyết trọng tài nước ngoài. Với phán quyết trọng tài trong nước, trên thực tế không cần thủ tục nào để công nhận; phán quyết là ràng buộc và có giá trị thi hành mà không cần sự công nhận chính thức từ phía toà án nếu như hiệu lực của phán quyết không bị một bên tranh chấp khởi kiện. Đối với phán quyết trọng tài nước ngoài, để thi hành tại Việt Nam cần thông qua thủ tục công nhận và thi hành phù hợp với Công ước New York. Chúng tôi vẫn lưu tâm đến vấn đề này và mong muốn học hỏi kinh nghiệm các nước. Đây là điểm gây tranh cãi về việc liệu phán quyết trọng tài là ràng buộc và có giá trị thi hành mà không cần thủ tục công nhận chính thức của toà án hay là ít nhất phán quyết đó cần phải đăng ký với toà án để được công nhận.

6. Nguyên tắc lex arbitrary: So sánh Điều 10.2 của Dự thảo Luật Trọng tài và Điều 49.2 của Pháp lệnh Trọng tài 2003

Trong những năm gần đây, các bên tranh chấp thường đưa tới VIAC những điều khoản trọng tài trong đó chọn VIAC để xét xử các tranh chấp hợp đồng nhưng lại chọn thủ tục tố tụng của ICC trước hội đồng trọng tài của VIAC. Một số chuyên gia cho rằng VIAC chỉ có quyền thụ lý vụ việc nếu như các bên thoả thuận áp dụng quy tắc tố tụng của chính VIAC. Tuy nhiên một số chuyên gia lại phản đối dựa trên cơ sở pháp lý tại Điều 49.2 Pháp lệnh Trọng tài 2003 cho phép các bên thoả thuận về thủ tục tố tụng trọng tài. Trên thực tế, VIAC từ chối thụ lý các vụ việc này và chúng tôi cần được tư vấn để làm rõ vấn đề này. Cá nhân tôi tin rằng các bên có quyền thoả thuận về luật áp dụng nhưng không có quyền thoả thuận về quy tắc tố tụng trọng tài.

7. Thành lập tổ chức trọng tài: So sánh với Điều 22 – 27 Dự thảo Luật Trọng tài

Trong vòng một thập kỷ qua, các trung tâm trọng tài liên tục được thành lập ở Việt Nam (6 – 8 trung tâm). Chúng tôi hiểu rằng Dự luật nên lưu ý đến việc thành lập hội đồng trọng tài chứ không phải là thành lập thiết chế trung tâm trọng tài. Chúng tôi đã tranh luận và đi đến kết luận là chúng ta nên quan tâm đến chất lượng, chuyên môn và danh tiếng của các trung tâm trọng tài chứ không phải là số lượng của các trung tâm đó. Chúng tôi cho phép những người sáng lập ra tổ chức trọng tài quyền được lựa chọn tên gọi cho tổ chức của mình như là Uỷ ban trọng tài hay Viện trọng tài.Chúng tôi cũng đang nghiên cứu nên duy trì các thủ tục thành lập tổ chức trọng tài như quy định hiện hành hay nới lỏng các thủ tục đó. Bởi vì Luật mẫu 1985 về trọng tài thương mại quốc tế vẫn không đề cập đến thủ tục thành lập tổ chức trọng tài như một thực thể pháp lý, nên chúng tôi cần được tư vấn về soạn thảo các quy định liên quan đến vấn đề này.

8. Chỉ định trọng tài viên

Các tổ chức trọng tài, ví dụ như VIAC có vai trò quan trọng trong việc đào tạo trọng tài viên và nâng cao vị thế của trọng tài trong xã hội. VIAC có danh sách các trọng tài viên (hiện nay là 123 trọng tài viên, trong đó có 6 người nước ngoài) và các bên tranh chấp thường chọn trọng tài viên từ danh sách do Ban Thư ký VIAC cung cấp. Chúng tôi cần được tư vấn để hiểu được tầm quan trọng thực sự của danh sách trọng tài viên do các tổ chức trọng tài cung cấp. Chúng tôi cũng quan tâm đến việc trong trường hợp nào thì các bên có thể chọn trọng tài viên ngoài danh sách được cung cấp.

9. Quốc tịch của trọng tài viên

Điều 20 Dự thảo Luật Trọng tài cho phép người nước ngoài được làm trọng tài viên ở Việt Nam. Chúng tôi đã thảo luận và đi đến kết luận rằng quốc tịch Việt Nam không nhất thiết phải là một điều kiện để một cá nhân trở thành trọng tài viên ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cần thêm thông tin về việc pháp luật các nước quy định về vấn đề này như thế nào.

10. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Điều 45 – 46 Dự thảo Luật Trọng tài là những quy định phức tạp nhất trong quá trình soạn thảo. Chúng tôi vẫn chưa cảm thấy thật sự thuyết phục về việc nên giao thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời cho hội đồng trọng tài hay cho toà án. Tổ chức USAID và một số chuyên gia lập luận là có thể giao cho hội đồng trọng tài. Tuy nhiên, nếu quy định theo hướng này thì làm thế nào để ngăn chặn khả năng hội đồng trọng tài hoặc các bên tranh chấp lạm dụng việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tất nhiên là cho dù hội đồng trọng tài có quyền này hay không thì toà án luôn luôn có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ tăng cường sự giúp đỡ của toà án đối với hội đồng trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp tạm thời như thế nào. Về vấn đề này, chúng tôi rất cần được tư vấn về việc thiết kế các quy định liên quan như thế nào trong Dự thảo Luật Trọng tài. Trong Dự luật chúng tôi cố gắng tăng cường quyền của nguyên đơn liên quan đến các biện pháp tạm thời, ví dụ quyền yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp đó ngay trong trường hợp chưa nộp đơn khởi kiện tại tổ chức trọng tài hoặc khi quá trình tố tụng trọng tài chưa bắt đầu. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ quy định là hội đồng trọng tài chỉ có quyền yêu cầu toà án giúp đỡ chứ không trực tiếp có quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời.

11. Hình thức đảm bảo cho việc áp dụng các biện pháp tạm thời

Tại điều 46.4 của Dự thảo Luật Trọng tài, so với Điều 17E Luật mẫu 1985 quy định là bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải đưa ra hình thức đảm bảo thích hợp cho biện pháp tạm thời đó. Điều này là chính xác và công bằng nhưng chúng tôi quan ngại là toà án có thể làm cho các biện pháp tạm thời trở nên vô dụng và không thể thực hiện được nếu như đưa ra yêu cầu các bên phải đưa ra một khoản đảm bảo có giá trị tương đương với giá trị đang tranh chấp. Chúng tôi cần được tư vấn về việc thiết kế các quy định phù hợp để hướng dẫn các thẩm phán về các hình thức bảo đảm thích hợp cho việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

12. Thu thập chứng cứ

Quy định về thu thập chứng cứ tại Điều 42 – 43 của Dự thảo Luật Trọng tài là những quy định gây nhiều tranh cãi nhất, giống như quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều 45 – 46 . Vấn đề trở nên đặc biệt quan trọng trong các vụ việc mà hội đồng trọng tài cần thu thập chứng cứ đang do bên thứ ba nắm giữ, đặc biệt là các cơ quan Nhà nước (thông tin về ngân hàng, bất động sản do các cơ quan quản lý nắm giữ). Chúng tôi chưa thực sự nghiêng về phương án nào, cho dù là hội đồng trọng tài có quyền ra lệnh bên thứ ba cung cấp chứng cứ hay là chỉ có quyền đề nghị toà án ra lệnh. Phương án sau có vẻ hợp lý hơn và chúng tôi cần được tư vấn về việc làm thế nào để tăng cường sự giúp đỡ của toà án đối với hội đồng trọng tài trong các trường hợp này.

13. Căn cứ để huỷ phán quyết trọng tài

Điều 62 Dự thảo Luật Trọng tài, tương tự quy định tại Điều 34 Luật mẫu 1985 là vô cùng quan trọng đối với hiệu lực pháp lý và tính ràng buộc của phán quyết trọng tài. Chúng tôi cố gắng quy định chặt chẽ về vấn đề này. Bởi vì các quy định này là trọng yếu đối với Dự thảo Luật Trọng tài, chúng tôi đề nghị nghiên cứu một cách cẩn trọng trong mối quan hệ so sánh với pháp luật các nước và thực tiễn của toà án.

14. Mối quan hệ giữa tổ chức trọng tài và toà án

Bên cạnh các vấn đề pháp luật nội dung nói trên, trên thực tế chúng tôi vẫn quan tâm đến các vấn đề mang tính tổ chức, kỹ thuật về mối quan hệ giữa trọng tài và toà án. Nhằm đảm bảo sự giúp đỡ của toà án với hội đồng trọng tài, trọng tài sẽ phải duy trì mối quan hệ mật thiết với toà án, ví dụ như báo cáo về đơn khởi kiện đã nộp, yêu cầu giúp đỡ lựa chọn trọng tài viên trong trường hợp cần thiết, yêu cầu toà án xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài, báo cáo về các phán quyết trọng tài đã tuyên, về các biện pháp khẩn cấp tạm thời đã áp dụng… Chúng tôi vẫn được tư vấn về việc thiết kế mối quan hệ báo cáo giữa tổ chức trọng tài và toà án và mong muốn học hỏi pháp luật các nước và thực tiễn pháp lý về cách thức và mức độ mà pháp luật quy định về mối quan hệ này.

15. Tổ chức trọng tài

Dưới góc độ tổ chức, chúng tôi cần được tư vấn về mức độ pháp luật can thiệp và quy định về khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của tổ chức trọng tài như là vấn đề quản lý nội bộ, đại diện pháp luật và sử dụng tài sản của tổ chức trọng tài. Chúng tôi đã quy định trong Dự thảo Luật Trọng tài là tổ chức trọng tài là một tổ chức phi chính phủ và được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, các vấn đề tổ chức khác vẫn chưa được quy định như là vai trò của tổ chức trọng tài, trọng tài viên có cần cấp thẻ hay không và một cá nhân có thể bị cấm làm trọng tài viên như thế nào…

V. Kết luận

Nếu so sánh về mặt câu chữ, một người có thể ngạc nhiên nếu thấy rằng Pháp lệnh Trọng tài 2003 giống tới 80% với Luật mẫu UNCITRAL 1985. Đưa các khái niệm pháp lý tiến bộ vào pháp luật, cho dù qua các bước lập pháp chặt chẽ, phức tạp, chỉ là bước khởi đầu trong quá trình chuyển tải một văn hoá pháp lý mới vào một quốc gia đang chuyển đổi như Việt Nam. Với Dự thảo Luật Trọng tài, dự định được Quốc hội thông qua vào mùa thu 2009, chúng tôi cố gắng nội luật hoá hầu hết các quy định của Luật mẫu UNCITRAL. Tuy nhiên, mối quan tâm chủ yếu của chúng tôi không chỉ dừng lại ở việc tạo ra các chuẩn mực tiến bộ mà còn là tạo ra môi trường thể chế hỗ trợ việc thi hành các chuẩn mực đó. Trọng tài không thể hoạt động hiệu quả nếu như không nhận được sự hỗ trợ của hệ thống tư pháp hiện hành ở Việt Nam. Vì vậy, Luật Trọng tài chỉ có thể thi hành được nếu các văn bản pháp luật khác như Bộ luật Tố tụng dân sự, các Luật có liên quan đến hệ thống tư pháp cũng như Luật Thi hành án dân sự quy định về việc toà án hỗ trợ trọng tài dưới hình thức thích hợp như thế nào. Một hệ thống trọng tài hoạt động hiệu quả sẽ tốt cho cộng đồng doanh nghiệp và giảm bớt gánh nặng công việc cho toà án. Nó cũng giúp tạo ra công lý dựa trên quyền tự do thoả thuận của cá nhân. Vẫn còn một số vấn đề gây tranh cãi và rõ ràng là không thể giải quyết thoả đáng ngay lập tức. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất mà mọi người đều thừa nhận là phải xây dựng danh tiếng và tin cậy của xã hội đối với trọng tài với tư cách là một thiết chế tự do các bên tạo ra.


Chú thích:

[1] Nghị quyết số 570/2008/UBTVQH12 về thành lập Ban Soạn thảo Luật Trọng tài của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

[2] Tài liệu UN số A/40/17, được Uỷ ban Pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hợp quốc sửa đổi vào 7/7/2006

[3] Xem Đỗ Văn Đại, Làm thế nào để trọng tài Việt Nam là chỗ dựa cho doanh nghiệp?

[4] Nghị định số 116/CP ngày 05/9/1994 về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế.

[5] VIAC được thành lập theo Quyết định số 224/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng. Trên cơ sở sáp nhập Uỷ ban Trọng tài Ngoại thương và Uỷ ban Trọng tài Hàng hải, từ 1993-1996, phạm vi xét xử tranh chấp của VIAC ban đầu chỉ tập trung vào các tranh chấp thương mại quốc tế nhưng sau đó được mở rộng cả đối với tranh chấp trong nước theo Quyết định số 114/TTg ngày 16/21996 của Thủ tướng.

[6] Vũ ánh Dương. Thực tiễn áp dụng Pháp lệnh Trọng tài thương mại tại Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Việt nam. Tạp chí Khoa học pháp lý số 3 (46) 2008.

[7] Đây là một ví dụ điển hình về cách làm luật tại Việt Nam. Ban đầu được ban hành dưới hình thức Nghị định, sau đó thu thập kinh nghiệm thực tiễn để nâng lên văn bản pháp lý cao hơn như Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Sau đó, Pháp lệnh lại được nâng cấp thành Luật do Quốc hội thông qua.

[8] Để cập nhật số liệu, liên hệ với Vụ Bổ trợ tư pháp- Bộ Tư pháp. Một số trung tâm có thể đã giải thể.

[9] Xem Số liệu thống kê của VIAC.

[10] Xem bản dịch chính thức của Pháp lệnh Trọng tài thương mại trên Công báo hoặc bản dịch của các tổ chức khác. Các điều khoản trích dẫn nếu không nêu rõ thì là quy định của Pháp lệnh Trọng tài 2003.

[11] Phan Huy Hồng, Vai trò của toà án trong hoạt động trọng tài, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3(46) 2008, tr. 22-34

SOURCE: DIỄN ĐÀN CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Trích dẫn từ: http://vibonline.com.vn/vi-VN/Forum/TopicDetail.aspx?TopicID=2179

KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY VÀ GIỚI THIỆU LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 2008

HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ

Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề quốc tịch, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã rất quan tâm và coi trọng việc soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật về quốc tịch. Trong từng thời kỳ cách mạng, nhà nước ta đều ban hành các văn bản pháp luật quy định về quốc tịch cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, cho đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật về quốc tịch của nhà nước Việt Nam đã có một số lượng đáng kể, góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh của dân tộc, của nhân dân trong công cuộc giải phóng đất nước trước đây và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

1. Pháp luật quốc tịch Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến thời điểm Luật Quốc tịch năm 2008 có hiệu lực

Xét về mặt lập pháp, có thể phân sự phát triển của pháp luật Việt Nam về quốc tịch thành 2 giai đoạn: từ năm 1945 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến nay.

a) Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975.

Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, với chính sách "chia để trị" của thực dân Pháp đất nước ta bị chia cắt thành ba miền với ba chế độ cai trị và hệ thống pháp luật khác nhau. Vấn đề quốc tịch và công dân vì thế không được quy định một cách rõ ràng trong các văn bản pháp luật.

Cách mạng tháng 8 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời. Lúc này, việc xác định một người có quốc tịch Việt Nam là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa chính trị to lớn để chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam. Chính vì thế, cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật về nhiều lĩnh vực khác nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 53/SL ngày 20 tháng 10 năm 1945 quy định quốc tịch Việt Nam.

Sắc lệnh số 53/SL ngay tại Điều 3 đã khẳng định quyền bình đẳng về quốc tịch Việt Nam giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam "Những dân tộc thiểu số ở nước Việt Nam như Thổ, Mán, Mường, Nùng, Kha, Lolo,v.v…, có trụ sở nhất định trên lĩnh thổ nước Việt Nam, đều là công dân Việt Nam".

Về có quốc tịch Việt Nam, Điều 2 của Sắc lệnh này quy định các trường hợp có quốc tịch Việt Nam do sinh ra:

"Những người thuộc một trong các hạng kể sau đây đều là công dân Việt Nam:

1- Cha là công dân Việt Nam;

2- Cha không rõ là ai hay không thuộc quốc tịch nào mà mẹ là công dân Việt Nam;

3- Đẻ ở trên lĩnh thổ nước Việt Nam mà cha mẹ không rõ là ai hay không thuộc một quốc tịch nào".

Theo quy định này, việc xác định quốc tịch của trẻ em mới sinh được dựa trên việc kết hợp nguyên tắc "Quyền huyết thống" và nguyên tắc "Quyền nơi sinh" để hạn chế tối đa việc trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam bị rơi vào tình trạng không quốc tịch.

Đồng thời, Sắc lệnh số 53/SL còn quy định về trường hợp có quốc tịch Việt Nam do phục hồi quốc tịch:

"Kể từ ngày ban hành sắc lệnh này, những người Việt Nam đã vào dân Pháp, sẽ coi là công dân Việt Nam.

Những người ấy phải đến khai bỏ quốc tịch Pháp ở phòng Hộ tịch Toà Thị chính của một trong những thành phố sau này: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Biên Hoà hay ở một trong những nơi mà Uỷ ban Bắc bộ, Trung bộ hay Nam bộ sẽ định sau" (Điều 4).

Thủ tục xin khai bỏ quốc tịch Pháp để trở lại quốc tịch Việt Nam lúc ấy được quy định rất đơn giản cho kịp ngày Tổng tuyển cử. Người nào không ra khai sẽ mất quyền bầu cử.

Cùng với việc quy định về các trường hợp có quốc tịch Việt Nam, Sắc lệnh số 53/SL còn quy định các trường hợp mất quốc tịch Việt Nam tại Điều 7. Công dân Việt Nam sẽ bị mất quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong các trường hợp:

1. Nhập một quốc tịch ngoại quốc;

2. Giữ một chức vụ gì ở ngoại quốc mà không chịu thôi, tuy đã được Chính phủ cảnh cáo;

3. Làm một việc gì phạm đến nền độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam.

Quy định về có quốc tịch do phục hồi quốc tịch cũng như các trường hợp mất quốc tịch Việt Nam cho thấy ngay từ thời kỳ này, nhà nước Việt Nam đã thực hiện chính sách một quốc tịch.

Tuy mới chỉ quy định một số vấn đề cơ bản nhất về quốc tịch nhưng Sắc lệnh 53/SL được ban hành trong thời điểm đất nước ta vừa mới ra đời nên có ý nghĩa chính trị to lớn, là bước chuẩn bị quan trọng cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.

Nhập quốc tịch Việt Nam cũng là một vấn đề rất quan trọng nhưng chưa được quy định trong Sắc lệnh số 53/SL. Vì vậy, ngày 07/12/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành Sắc lệnh số 73/SL quy định việc nhập quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh số 73/SL đã quy định điều kiện cụ thể đối với những người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch Việt Nam (Điều 1): "Những người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch Việt Nam phải có những điều kiện sau đây: 1- Đủ 18 tuổi; 2- Đã ở 10 năm trên đất nước Việt Nam; 3- Có trú quán nhất định trong nước Việt Nam; 4- Biết tiếng nói Việt Nam; 5- Có hạnh kiểm tốt; 6- Nếu có vợ hay chồng là người ngoại quốc, thì phải được người vợ hay chồng thoả thuận cho nhập quốc tịch Việt Nam".

Cách thức xin nhập quốc tịch Việt Nam cũng được quy định cụ thể: người xin phải đệ đơn lên Uỷ ban nhân dân tỉnh nơi mình ở, Uỷ ban tỉnh phải điều tra và cho ý kiến rồi gửi lên Uỷ ban Kỳ, Uỷ ban Kỳ phê ý kiến rồi gửi lên Bộ Tư pháp. Nếu Bộ Tư pháp chấp nhận thì ra sắc lệnh cho nhập quốc tịch Việt Nam (Điều 4 Sắc lệnh số 73/SL). Việc quy định cụ thể trình tự, thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam nhìn chung là đơn giản, thuận tiện cho dân.

Sắc lệnh số 73/SL còn quy định rõ "Người đã nhập quốc tịch Việt Nam được hưởng đủ quyền lợi và phải chịu tất cả trách nhiệm của một công dân Việt Nam" (Điều 3).

Tháng 12/1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, nhân dân ta lại bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy cam go, quyết liệt. Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký và ban hành Sắc lệnh số 215/SL ngày 20/8/1948 ấn định những quyền lợi đặc biệt cho những người ngoại quốc giúp vào cuộc kháng chiến Việt Nam. Theo đó, "những người có công trạng với cuộc kháng chiến thì được miễn điều kiện thời hạn định trong Sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 về sự xin gia nhập quốc tịch Việt Nam". Tại thời điểm này, cả nước ta đang tập trung sức người sức của cho cuộc kháng chiến chống Pháp, Sắc lệnh số 215/SL đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với những người ngoại quốc có công giúp vào cuộc kháng chiến Việt Nam.

Cùng với việc ban hành các sắc lệnh quy định về nhiều lĩnh vực khác nhau, sự ra đời của các sắc lệnh nói trên về quốc tịch đã đặt nền tảng pháp lý quan trọng cho việc hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về quốc tịch nói riêng và hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam nói chung.

Năm 1954, Hiệp định Geneve về Việt Nam được ký kết, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Ngày 14/12/1959, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký và ban hành Sắc lệnh số 51/SL bãi bỏ Điều 5, 6 Sắc lệnh 53/SL ngày 20/10/1945. Theo Sắc lệnh số 51/SL, "những phụ nữ Việt Nam lấy chồng có quốc tịch nước ngoài trước ngày ban hành Sắc lệnh này vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Người nào muốn theo quốc tịch của người chồng thì trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày ban hành Sắc lệnh này phải xin bỏ quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà cho phép". Quy định này xét dưới góc độ quyền công dân đã bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ, phù hợp với quy định tại Điều 9 Hiến pháp năm 1946 "đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện". Đồng thời cũng khẳng định, quyền có quốc tịch là quyền nhân thân của mỗi người, mỗi người đều có quyền quyết định lựa chọn quốc tịch cho mình, người đàn bà khi lấy chồng ngoại quốc vẫn có thể giữ quốc tịch gốc của mình nếu không có nguyện vọng theo quốc tịch của chồng. Ngược lại, trong trường hợp họ muốn theo quốc tịch của chồng thì phải xin bỏ quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ cho phép.

Từ năm 1960, theo Luật Tổ chức Chính phủ, trong thành phần của Chính phủ không có Bộ Tư pháp, các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp được chuyển giao cho Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao và một phần cho chính quyền địa phương. Về lĩnh vực quốc tịch, ngày 08/2/1971 Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ban hành Nghị quyết số 1043/NQ-TVQHK6 về việc xin thôi hoặc nhập quốc tịch Việt Nam, trong đó "giao cho Hội đồng Chính phủ xét và quyết định về những trường hợp cụ thể xin vào hoặc xin thôi quốc tịch Việt Nam".

Có thể khẳng định rằng, trước năm 1975, các vấn đề về quốc tịch chủ yếu được quy định trong một số sắc lệnh và nghị quyết nêu trên. Mỗi văn bản pháp luật chỉ giải quyết một vấn đề cụ thể do thực tiễn cách mạng lúc đó đặt ra. Mạc dù vậy, như đã phân tích ở trên, các văn bản đó đã thể hiện rõ quan điểm tiến bộ của Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề cơ bản về quốc tịch như: bình đẳng giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam về quốc tịch Việt Nam, bảo đảm quyền của cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam được có quốc tịch thông qua việc hạn chế tình trạng không quốc tịch, bình đẳng giữa các công dân Việt Nam với nhau về quyền và nghĩa vụ công dân, không kể người có quốc tịch gốc Việt Nam hay được nhập quốc tịch Việt Nam… Rõ ràng, các quy định về quốc tịch trong các văn bản trên đã đặt nền tảng ban đầu cho việc xây dựng và ban hành Luật quốc tịch Việt Nam ở giai đoạn sau.

b) Giai đoạn từ năm 1975 đến nay

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi (30/4/1975), đất nước ta hoàn toàn độc lập, non sông thu về một mối. Tại kỳ họp thứ 7, phiên họp ngày 18/12/1980 Quốc hội khoá VI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức thông qua bản Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 1980 tại Điều 53 quy định: "Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo luật định". Lần đầu tiên, vấn đề quốc tịch của công dân Việt Nam được quy định trong Hiến pháp – văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988.

Tại kỳ họp thứ 3, ngày 28/6/1988 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/7/1988. Đây là đạo luật đầu tiên của nhà nước ta quy định khá đầy đủ các vấn đề về quốc tịch Việt Nam. Luật gồm 18 điều, chia thành 6 chương: Chương I: Những quy định chung; chương II: Xác định có quốc tịch Việt Nam; chương III: Mất quốc tịch, trở lại quốc tịch Việt Nam; chương IV: Quốc tịch trẻ em khi có sự thay đổi quốc tịch cha mẹ, quốc tịch con nuôi; chương V: Thẩm quyền giải quyết các vấn đề về quốc tịch; chương VI: Điều khoản cuối cùng. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 đã quy định rõ tại Điều 3: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam". Như vậy, Luật quốc tịch năm 1988 đã quy định nguyên tắc một quốc tịch triệt để. Tuy thế, Luật năm 1988 chưa quy định cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, do đó gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật cũng như để lại hậu quả pháp lý phức tạp trên thực tế.

Luật quốc tịch năm năm 1988 ra đời thay thế cho Sắc lệnh số 53/SL, Sắc lệnh số 73/SL, Điều 6 Sắc lệnh số 215/SL, Sắc lệnh số 51/SL và Nghị quyết số 1043-NQ/TVQH.

Để Luật quốc tịch 1988 thực sự đi vào cuộc sống, giải quyết được các vấn đề vướng mắc về quốc tịch Việt Nam, ngày 05/02/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 37/HĐBT quy định chi tiết thi hành Luật quốc tịch Việt Nam. Tiếp theo đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/1998/NĐ-CP ngày 14/01/1998 sửa đổi một số điều của Nghị định số 37/HĐBT. Nghị định số 37/HĐBT ngoài việc quy định chi tiết thi hành Luật quốc tịch còn quy định cụ thể thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch như: hồ sơ xin nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam; nơi nộp hồ sơ; thời hạn và quy trình giải quyết các việc về quốc tịch.

Có thể thấy, Luật quốc tịch Việt Nam 1988 đã luật hoá một cách chính thức các quy định về quốc tịch Việt Nam, giải quyết được một số tồn tại, vướng mắc trong thực tế về quốc tịch.

Tuy vậy, Luật quốc tịch năm 1988 được ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới nên đến giai đoạn sau những năm 1990 không đáp ứng được chủ trương hội nhập quốc tế. Sự phát triển kinh tế xã hội, xu hướng hội nhập quốc tế dẫn đến ngày càng có nhiều người nước ngoài vào làm ăn, sinh sống tại Viêt Nam, công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài…Thêm vào đó, sự ra đời của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995 đã đặt ra yêu cầu cần phải cập nhật, hoàn thiện các quy định pháp luật về quốc tịch.

Trên cơ sở đó, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X tại kỳ họp thứ 3 ngày 20/5/1998 đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam và Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999.

Để hướng dẫn thi hành và cụ thể hoá những quy định của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, Chính phủ và các cơ quan có liên quan đã ban hành một số văn bản dưới luật:

- Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998.

- Thông tư liên tịch số 08/1998/TTLT/BTC-BTP-BNG ngày 31/12/1998 của liên bộ Tài chính -Tư pháp – Ngoại giao hướng dẫn mức thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí giải quyết việc nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam và cấp giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam.

- Thông tư liên tịch số 09/1998/TTLT/BGDĐT-BTP ngày 31/12/1998 của Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Tư pháp hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận trình độ tiếng Việt cho người nước ngoài xin nhập quốc tịch Việt Nam.

- Quyết định số 60/1999/QĐ-TP-QT ngày 07/4/1999 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành mẫu giấy tờ về quốc tịch Việt Nam.

- Thông tư số 09/1999/TT-BTP ngày 07/4/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn việc cấp giấy xác nhận không có quốc tịch Việt Nam .

- Nghị định số 55/2000/NĐ-CP ngày 11/10/2000 của Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam.

Những nội dung cơ bản của Luật quốc tịch năm 1998.

So với Luật quốc tịch năm 1988, Luật quốc tịch năm 1998 vẫn giữ nguyên bố cục các chương (6 chương) nhưng tăng thêm 24 điều (42 điều so với Luật quốc tịch năm 1988 là 18 điều).

1. Quyền đối với quốc tịch và chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

Hiến pháp năm 1992 tại Điều 49 ghi nhận "công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam", Bộ luật Dân sự ngày 28/10/1995 trong các quy định về quyền nhân thân của con người cũng khẳng định "Mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch…", Luật quốc tịch Việt Nam 1998 ngay tại Điều 1 đã quy định về quyền đối với quốc tịch: "1/ Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch. Công dân Việt Nam không ai bị tước quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại Điều 25 của Luật này. 2/ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam; mọi thành viên của các dân tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam".

Đối với mỗi cá nhân, quyền có quốc tịch là quyền nhân thân gắn liền với bản thân mỗi người, quyền đó chỉ bị mất trong những trường hợp luật định, hạn chế tối đa tình trạng không quốc tịch. Điều này hoàn toàn không phụ thuộc vào nguồn gốc dân tộc. Sự bình đẳng này còn thể hiện ở quy định "việc kết hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa công dân Việt nam với người nước ngoài không làm thay đổi quốc tịchViệt Nam của đương sự…" (Điều 9) cũng như "việc vợ hoặc chồng nhập hoặc mất quốc tịch Việt Nam không làm thay đổi quốc tịch của người kia" (Điều 10). Các quy định này đã từng được ghi nhận trong Luật quốc tịch năm 1988 và tiếp tục được duy trì trong Luật năm 1998.

Tại Điều 4, Luật quốc tịch năm 1998 còn quy định "Người có quốc tịch Việt Nam là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Quy định này mới được bổ sung so với Luật quốc tịch năm 1988.

Đặc biệt, so với Luật quốc tịch năm 1988, Luật quốc tịch năm 1998 đã bổ sung một số điều luật quy định về chính sách bảo hộ của nhà nước Việt Nam đối với người Việt Nam ở nước ngoài (Điều 5), chính sách đối với người gốc Việt Nam ở nước ngoài (Điều 6), chính sách đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài (Điều 7). Những quy định này phù hợp với chính sách của Đảng và nhà nước ta về đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sự gắn bó hơn nữa cả về mặt tình cảm cũng như mặt pháp lý giữa người Việt Nam ở nước ngoài với nhà nước Việt Nam.

2. Nguyên tắc một quốc tịch

Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 đã quy định nguyên tắc một quốc tịch triệt để tại Điều 3, đến Luật quốc tịch năm 1998 nguyên tắc một quốc tịch vẫn được ghi nhận nhưng ở mức độ "nới lỏng" hơn bằng cách bỏ từ "chỉ". Điều 3, Luật quốc tịch năm 1998 quy định "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam". Tình trạng hai hay nhiều quốc tịch là nguyên nhân gây ra những hậu quả pháp lý phức tạp như trong vấn đề thực hiện nghĩa vụ công dân đối với nhà nước, việc bảo hộ ngoại giao của nhà nước đối với công dân…Tuy nhiên, do sự xung đột pháp luật giữa các nước cũng như chính sách hội nhập quốc tế thì trên thực tế vẫn phát sinh tình trạng này. Pháp luật của một số nước mặc dù quy định công nhận công dân có một quốc tịch nhưng cũng không thể ngăn ngừa một cách triệt để tình trạng hai hay nhiều quốc tịch.

Luật quốc tịch năm 1998 cũng có một số quy định nhằm hạn chế sự phát sinh tình trạng hai quốc tịch như: người dưới 15 tuổi tìm thấy cha mẹ, cha hoặc mẹ, người giám hộ có quốc tịch nước ngoài thì không còn quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 19), công dân nước ngoài nhập quốc tịch Việt Nam thì không còn giữ quốc tịch nước ngoài trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định (khoản 3 Điều 20); ký kết điều ước quốc tế để hạn chế hai hoặc nhiều quốc tịch (Điều 41).

Tuy nhiên, nguyên tắc một quốc tịch vẫn là nguyên tắc mang tính hình thức. Vì trên thực tế, vẫn có nhiều trường hợp công dân Việt Nam đã nhập quốc tịch nước ngoài mà chưa thôi quốc tịch Việt Nam do pháp luật nước ngoài không bắt buộc phải từ bỏ quốc tịch gốc. Khi họ trở về Việt Nam đầu tư, làm ăn, họ chỉ sử dụng tư cách công dân của nước có lợi cho họ. Do đó, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong công tác quản lý. Hơn nữa, nguyên tắc một quốc tịch cũng không phản ánh được nguyện vọng của đông đảo kiều bào ta ở nước ngoài tuy đã được nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn mong muốn được giữ quốc tịch Việt Nam để tạo sự gắn bó, gần gũi với mảnh đất ruột thịt của mình.

Thực tiễn thực hiện nguyên tắc một quốc tịch đã đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu, xem xét lại nguyên tắc này để quy định cho phù hợp.

3. Có quốc tịch Việt Nam.

Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 tiếp tục kế thừa và hoàn thiện 5 căn cứ pháp lý có quốc tịch Việt Nam của Luật quốc tịch năm 1988, đó là: Do sinh ra theo quy định tại các điều 16,17,18 của Luật; được nhập quốc tịch Việt Nam; được trở lại quốc tịch Việt Nam; theo điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; các căn cứ quy định tại các Điều 19,28 và 30 của Luật.

Như vậy, căn cứ cơ bản để có quốc tịch Việt Nam là do sinh ra, do nhập và do được trở lại quốc tịch Việt Nam.

Về quốc tịch của trẻ em, Luật quốc tịch năm 1998 quy định dựa trên nguyên tắc "Quyền huyết thống" (Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là công dân Việt Nam – Điều 16, Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam – Điều 17) kết hợp với nguyên tắc "Quyền nơi sinh" (Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là người không quốc tịch – Điều 18, Quốc tịch của trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam – Điều 19). Các quy định về quốc tịch của trẻ em đã bảo đảm tối đa quyền có quốc tịch của trẻ em, điều này phù hợp với Luật Bảo vệ Chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng như Công ước Quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã tham gia.

Được nhập quốc tịch là một trong những căn cứ để có quốc tịch Việt Nam. Điều 20 Luật quốc tịch năm 1998 đã quy định các điều kiện để công dân nước ngoài và người không quốc tịch được nhập quốc tịch Việt Nam. So với 3 điều kiện quy định tại Điều 7 Luật quốc tịch năm 1988, Điều 20 Luật quốc tịch năm 1998 quy định đầy đủ hơn, đó là:

a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam;

b) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;

c) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng xã hội Việt Nam;

d) Đã thường trú ở Việt Nam từ năm năm trở lên;

đ) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.

Để được nhập quốc tịch Việt Nam, công dân nước ngoài và người không quốc tịch phải đáp ứng đủ các điều kiện trên. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 20 có thể được miễn điều kiện về biết tiếng Việt, thời gian thường trú và khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.

Trở lại quốc tịch Việt Nam: Một người đã bị mất quốc tịch Việt Nam cũng có thể trở lại quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật quốc tịch năm 1998 và không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.

Ngoài ra, xuất phát từ yêu cầu thực tế, Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 còn quy định về "Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam" tại Điều 22 nhằm đáp ứng nguyện vọng của những người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam khi họ đầu tư về nước và muốn xác nhận có quốc tịch Việt Nam để được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định của Nhà nước Việt Nam.

4. Mất quốc tịch Việt Nam.

Quốc tịch là quyền nhân thân của mỗi con người. Quốc tịch chỉ bị mất khi người đó chết đi hoặc bị tước quốc tịch với tư cách là một biện pháp chế tài của một nước áp dụng với công dân của họ. Một người cũng có thể xin thôi quốc tịch của một nước để nhập quốc tịch của nước khác.

Luật năm 1998 quy định 4 trường hợp công dân Việt Nam bị mất quốc tịch Việt Nam: 1/ Được thôi quốc tịch Việt Nam; 2/ Bị tước quốc tịch Việt Nam; 3/ Theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; 4/ Trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19, Điều 26 và Điều 28 của Luật này.

Công dân Việt Nam muốn nhập quốc tịch nước ngoài và có nguyện vọng thôi quốc tịch Việt Nam (thể hiện bằng đơn ) thì có thể được thôi quốc tịch Việt Nam trừ một số trường hợp. Người xin thôi quốc tịch Việt Nam chưa được thôi quốc tịch Việt Nam nếu đang nợ thuế đối với Nhà nước hoặc một nghĩa vụ tài sản đối với cơ quan, tổ chức hoặc công dân Việt Nam; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; chưa chấp hành xong bản án, quyết định của Toà án Việt Nam (khoản 2 Điều 24). Các trường hợp này chỉ được thôi quốc tịch Việt Nam sau khi các hoàn cảnh trên chấm dứt. Người xin thôi quốc tịch Việt Nam không được thôi quốc tịch Việt Nam nếu việc thôi quốc tịch Việt Nam làm phương hại đến lợi ích quốc gia hoặc đối tượng xin thôi là cán bộ, công chức và những người đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân (khoản 3, 4 Điều 24).

Công dân Việt Nam cũng có thể bị mất quốc tịch Việt Nam do bị tước quốc tịch Việt Nam. Trường hợp công dân Việt Nam có hành động gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đối với công dân Việt Nam có quốc tịch gốc Việt Nam bị áp dụng biện pháp chế tài này nếu họ cư trú ngoài lãnh thổ Việt Nam; còn đối với những người không phải có quốc tịch gốc Việt Nam mà họ có quốc tịch Việt Nam do được nhập thì sẽ bị áp dụng biện pháp chế tài này không kể họ cư trú ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam (Điều 25).

Với con chưa thành niên, khi cha mẹ hoặc một trong hai người bị tước quốc tịch Việt Nam thì quốc tịch của con chưa thành niên không thay đổi (Điều 29).

5. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch.

Từ một điều luật duy nhất của Luật năm 1988, Luật quốc tịch năm 1998 đã quy định đầy đủ, chi tiết hơn về thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch với 10 điều luật. Trong đó đã quy định rõ thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài về quốc tịch. Đồng thời, Luật cũng quy định về nơi nộp đơn, thời hạn giải quyết đơn yêu cầu về quốc tịch, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về quốc tịch. Các quy định đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, giúp họ thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ của mình về quốc tịch.

2. Giới thiệu Luật Quốc tịch năm 2008

a. Sự cần thiết của sửa đổi Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998

Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 được Quốc hội khoá X nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/5/1998 tại kỳ họp thứ 3 (sau đây gọi là Luật quốc tịch năm 1998) là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về quốc tịch của Nhà nước ta. Luật quốc tịch năm 1998 đã điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quốc tịch như: quyền của cá nhân đối với quốc tịch, nguyên tắc một quốc tịch, hạn chế tình trạng không quốc tịch, quốc tịch của vợ và chồng, các căn cứ xác định người có quốc tịch Việt Nam, mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi; thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch. Sau hơn 9 năm thực hiện, Luật quốc tịch năm 1998 đã thực sự đi vào cuộc sống, phát huy vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định người có quốc tịch Việt Nam, cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam, thực hiện chính sách bảo hộ của Nhà nước ta đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài… Luật quốc tịch năm 1998 đã góp phần quan trọng vào việc hình thành mối quan hệ gắn bó giữa công dân Việt Nam với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tuy nhiên, Luật quốc tịch năm 1998 cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập sau đây:

Một là, nguyên tắc một quốc tịch quy định tại Điều 3 là cứng nhắc, bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế, chưa thật phù hợp với nguyện vọng của kiều bào ta ở nước ngoài và thực sự khó khăn trong triển khai thực hiện trên thực tế.

Nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 Luật quốc tịch năm 1998: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam". Tuy nhiên, do thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc này (cơ chế đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam khi đương sự chọn hoặc nhập quốc tịch nước ngoài) nên trên thực tế đã nảy sinh hệ quả là công dân Việt Nam định cư ở một số nước mà ở đó khi nhập quốc tịch pháp luật của nước sở tại không bắt buộc phải thôi quốc tịch Việt Nam dẫn đến một số lượng khá đông người Việt Nam định cư ở nước ngoài rơi vào tình trạng vừa có quốc tịch nước sở tại, vừa có quốc tịch Việt Nam. Thêm vào đó, trong khi Việt Nam quy định nguyên tắc xác định quốc tịch theo huyết thống thì luật quốc tịch một số nước lại xác định quốc tịch theo nơi sinh, sự xung đột pháp lý này cũng là lý do làm tăng thêm số người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch. Vì vậy, sự cứng nhắc của nguyên tắc một quốc tịch trong Luật quốc tịch năm 1998 đã làm cho các cơ quan nhà nước Việt Nam gặp nhiều khó khăn, lúng túng, thậm chí bị bó tay khi giải quyết các vụ việc cụ thể có liên quan đến quốc tịch.

Hơn nữa, nguyên tắc một quốc tịch theo Luật quốc tịch năm 1998 thực sự chưa phản ánh đúng nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đại đa số kiều bào ta dù phải rời Tổ quốc do các hoàn cảnh khác nhau, nhưng vẫn có nguyện vọng thiết tha được gắn bó với quê hương nên không muốn bị mất quốc tịch Việt Nam khi nhập quốc tịch nước sở tại.

Từ những vấn đề đã nêu ở trên, yêu cầu bức xúc đặt ra là cần phải cân nhắc sửa đổi nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 Luật quốc tịch 1998 cho phù hợp với tình hình thực tế.

Hai là, Luật quốc tịch năm 1998 chưa có cơ chế hữu hiệu, khả thi để thực hiện một chủ trương quan trọng là hạn chế tình trạng không quốc tịch ở nước ta.

Thực tế hiện nay số công dân nước ngoài, người không quốc tịch, người không rõ quốc tịch cư trú trên lãnh thổ nước ta là tương đối nhiều, việc giải quyết quốc tịch cho họ gặp rất nhiều khó khăn và trong nhiều trường hợp không thể giải quyết được. Ngoài ra, việc hoạch định lại biên giới giữa Việt Nam và các nước láng giềng trong những năm qua cũng dẫn đến hệ quả là một bộ phận khá lớn dân cư dọc biên giới tuy đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam nhưng chưa được nhập quốc tịch Việt Nam. Lý do là, phần lớn trong số họ không có giấy tờ tuỳ thân để xác định tình trạng quốc tịch, trình độ văn hoá rất thấp thậm chí không biết chữ, điều kiện kinh tế lại khó khăn, do đó nếu cứ buộc họ làm thủ tục nhập quốc tịch theo đúng quy định của Luật quốc tịch năm 1998 là không khả thi. Thực trạng này không những làm cho cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn, mà còn làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong việc quản lý dân cư dọc biên giới.

Để giải quyết vấn đề tồn đọng nêu trên về quốc tịch, cần phải quy định một thủ tục sát với yêu cầu thực tế hơn.

Ba là, cơ chế quản lý nhà nước về quốc tịch còn bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.

Theo quy định của Luật quốc tịch năm 1998, có nhiều cơ quan khác nhau có thẩm quyền tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề quốc tịch, nhưng việc phân định trách nhiệm và quyền hạn có nhiều điểm chưa cụ thể, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ dẫn đến tình trạng chậm trễ trong giải quyết các việc về quốc tịch, chia cắt về thông tin, yếu kém về thống kê quốc tịch. Đến nay chưa lập được cơ sở giữ liệu quốc gia về quốc tịch là một thiếu sót lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch. Mặt khác, đối với những người Việt Nam định cư ở nước ngoài do thiếu cơ chế đăng ký quốc tịch nên thực sự chúng ta chưa nắm được tình trạng quốc tịch của hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài để có chính sách quản lý và bảo hộ.

Hơn nữa, so với bối cảnh tại thời điểm ban hành Luật quốc tịch năm 1998, hiện nay đất nước ta đã có nhiều thay đổi lớn, quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội; uy tín và vị thế quốc tế của nước ta ngày càng nâng cao. Nước ta đã và đang hội nhập sâu hơn vào đời sống kinh tế quốc tế (là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc). Thành tựu về phát triển kinh tế – xã hội trong hơn 20 năm đổi mới đã đưa nước ta tới ngưỡng cửa thoát nghèo, có thêm điều kiện để bảo đảm tốt hơn cho công dân được hưởng đầy đủ các quyền do pháp luật quy định, trong đó quyền có quốc tịch là một trong những quyền cơ bản của công dân. Đồng thời, phải nói rằng với sự phát triển của khoa học pháp lý, tư duy pháp lý cũng có nhiều đổi mới, tiếp cận gần hơn với các giá trị phổ biến của thế giới.

Đứng trước tình hình đó, việc sửa đổi Luật Quốc tịch là rất cần thiết nhằm khắc phục những điểm hạn chế của Luật Quốc tịch năm năm 1998, qua đó thể hiện rõ chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quốc tịch là phát huy truyền thống nguyên tắc một quốc tịch, hạn chế tình trạng hai hay nhiều quốc tịch đối với công dân sống trên lãnh thổ Việt Nam; pháp lý hoá sự tồn tại thực tế của tình trạng hai quốc tịch đối với một bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài, xác định người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; xác định rõ một số trường hợp ngoại lệ khi nhập quốc tịch Việt Nam không phải thôi quốc tịch gốc; tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác quốc tịch; thiết lập cơ chế giải quyết những tồn đọng về tình trạng người không quốc tịch, làm ăn, sinh sống ổn định trên lãnh thổ Việt Nam; xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan trong việc quản lý, giải quyết các việc về quốc tịch, kế thừa và cụ thể hoá những quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch, xây dựng cơ chế tháo gỡ những vướng mắc, tồn đọng trong thực tiễn giải quyết các công việc về quốc tịch.

Trong bối cảnh như vậy, Bộ Chính trị đã có sự đánh giá đúng đắn về các chính sách của nhà nước ta đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài: "các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa được quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ, công tác bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức; các chính sách, văn bản pháp luật chưa đồng bộ, chưa thể hiện đầy đủ tinh thần đại đoàn kết dân tộc, chưa khuyến khích mạnh mẽ người Việt Nam định cư ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước" (trích Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài). Do đó, việc xây dựng và ban hành Luật quốc tịch (sửa đổi) là cần thiết, góp phần quan trọng vào việc thể chế hoá và bảo đảm thực hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta coi người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước.

Nhằm mục đích này, ngày 13-11-2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa 12 đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam (sửa đổi). Luật đã được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 28-11-2008. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2009.

b. Bố cục của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008

Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 gồm 6 chương, 44 điều, cụ thể như sau:

- Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 12 ).

Chương này quy định các vấn đề chung về quốc tịch Việt Nam; quyền đối với quốc tịch; nguyên tắc quốc tịch; quan hệ giữa Nhà nước và công dân; bảo hộ đối với công dân; chính sách đối với người gốc Việt Nam; hạn chế tình trạng không quốc tịch; giữ quốc tịch khi kết hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật; giữ quốc tịch khi quốc tịch của vợ hoặc chồng thay đổi; giấy tờ chứng minh quốc tịch và giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài.

- Chương II: Có quốc tịch Việt Nam (từ Điều 13 đến Điều 25)

Chương này quy định về người có quốc tịch Việt Nam; căn cứ xác định quốc tịch; quốc tịch của trẻ em; các điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam; trình tự, thủ tục và hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam của người không quốc tịch cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam.

- Chương III: Mất quốc tịch Việt Nam (từ Điều 26 đến Điều 34)

Chương này quy định về căn cứ mất quốc tịch Việt Nam; các điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam, tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.

- Chương IV: Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi (từ Điều 35 đến Điều 37)

Chương này quy định về quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ được nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam hoặc bị tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.

- Chương V: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quốc tịch (từ Điều 38 đến Điều 41)

Chương này quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; Vấn đề thông báo và đăng tải kết quả giải quyết các việc về quốc tịch.

- Chương VI: Điều khoản thi hành (từ Điều 42 đến Điều 44)

Chương này quy định về điều khoản chuyển tiếp đối với việc giải quyết hồ sơ các việc về quốc tịch được tiếp nhận trước ngày Luật này có hiệu lực; Hiệu lực thi hành của Luật; việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.

c. Những nội dung mới (của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008) so với Luật Quốc tịch Việt nam năm 1998

So với luật Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, Luật quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) năm 2008 có một số nội dung mới sau đây:

1. Về nguyên tắc quốc tịch (Điều 4)

"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác."

So sánh với "nguyên tắc một quốc tịch" của Luật quốc tịch năm 1998, thì "nguyên tắc quốc tịch" trong Luật Quốc tịch năm 2008 có sự mềm dẻo hơn. Nếu như ở Luật năm 1998 có ghi là "nguyên tắc một quốc tịch" thì đến Luật năm 2008 đã bỏ bớt từ "một", chỉ còn là "nguyên tắc quốc tịch". Ngoài nội dung đã quy định trong Luật năm 1998 "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam", Luật năm 2008 còn bổ sung thêm một điểm mới quan trọng "trừ trường hợp Luật này có quy định khác". Như vậy Luật tiếp tục khẳng định nguyên tắc một quốc tịch, nhưng cũng công nhận có những trường hợp ngoại lệ vừa có quốc tịch Việt Nam, đồng thời có quốc tịch nước ngoài được quy định cụ thể trong các điều luật. Việc khẳng định một số ngoại lệ có thể có hai quốc tịch không có nghĩa từ bỏ nguyên tắc một quốc tịch mà chỉ sửa đổi nguyên tắc này cho mềm dẻo hơn, phù hợp hơn với thực tế biến động dân cư và trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, quy định này cũng phù hợp với thực tiễn giao lưu quốc tế; nhiều nước trước đây thực hiện chính sách một quốc tịch cứng, mới đây đã sửa đổi theo hướng mềm dẻo hơn là vừa khẳng định nguyên tắc một quốc tịch nhưng có mở rộng ngoại lệ hai quốc tịch (như Nga, Đức, Mê-hi-cô…).

Những trường hợp ngoại lệ nêu trên là những trường hợp đặc biệt, được Chủ tịch nước cho phép khi xin nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 3 điều 19), xin trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 5 Điều 23). Người xin nhập quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam thuộc một trong những trường hợp như là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam, người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, được trở lại quốc tịch Việt Nam mà không phải thôi quốc tịch nước ngoài, trong trường hợp đặc biệt, được Chủ tịch nước cho phép. Ngoài ra, Luật còn quy định có những trường hợp có thể có hai quốc tịch, đó là trường hợp quốc tịch của trẻ em là con nuôi (Điều 37), trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng vẫn mong muốn giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 13).

2. Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam (Điều 13)

Điều 13 quy định về việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam:

"1. Người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật này có hiệu lực và người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này;

2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn có quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam".

Quy định này mới được bổ sung, nhằm thể chế hoá Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; để thực hiện chủ trương khép lại quá khứ, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn kết cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài với cộng đồng dân tộc Việt Nam, xác định người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình, quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước. Quy định này cũng để làm rõ hơn việc những người vẫn còn có quốc tịch Việt Nam đã được quy định tại khoản 1 Điều này. Mặt khác, trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch của nước sở tại thì họ có quyền giữ quốc tịch Việt Nam nếu pháp luật về quốc tịch của nước đó cho phép công dân có hai quốc tịch. Trên thực tế, đối với bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài, việc phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là để xác định rõ ràng tình trạng quốc tịch của họ giúp cho công tác quản lý quốc tịch và bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài hiệu quả hơn. Đây là một quy định mới hoàn toàn so với Luật Quốc tịch năm 1998.

Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra chủ trương tăng cường bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế những năm qua cho thấy, do không xác định được chính xác những ai trong số hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn giữ quốc tịch Việt Nam nên công tác quản lý quốc tịch, quản lý công dân cũng như thực hiện nhiệm vụ bảo hộ công dân của Nhà nước ta ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là phù hợp với nguyện vọng của bà con ở nước ngoài, là giải pháp cụ thể để trong một thời gian nhất định Nhà nước ta xác định được rõ ràng những người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn muốn giữ quốc tịch Việt Nam, qua đó xác định đúng tình trạng quốc tịch của họ, tạo điều kiện để làm tốt công tác quản lý về quốc tịch.

Khi Luật có hiệu lực, những người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn giữ quốc tịch Việt Nam thì phải đến đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở khu vực gần nhất. Nếu hết thời hạn 5 năm mà không làm thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam thì người đó đương nhiên bị mất quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 3 Điều 26; sau này, nều người đó muốn có quốc tịch Việt Nam thì phải qua thủ tục xin trở lại quốc tịch Việt Nam.

3. Giải quyết vấn đề nhập quốc tịch Việt Nam đối với người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam

Tình trạng người không quốc tịch đang thường trú trên lãnh thổ nước ta chủ yếu tập trung ở một số tỉnh, thành phố phía Nam, Tây Nguyên, các tỉnh biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Do nước ta có chung đường biên giới trên đất liền với ba nước láng giềng, qua nhiều năm chiến tranh nên việc di cư tự do qua biên giới đã diễn ra dễ dàng và kéo dài. Trải qua nhiều năm cư trú, làm ăn, sinh sống ổn định trên lãnh thổ nước ta, đến nay số cư dân này đã thực sự hoà nhập vào cộng đồng người Việt về mọi mặt đời sống: sản xuất, sinh hoạt, học tập, hôn nhân… Nghề nghiệp của họ chủ yếu là làm ruộng, làm rẫy, một số ít kinh doanh buôn bán nhỏ. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, những người này cũng như các con, cháu của họ chưa được hưởng quy chế công dân Việt Nam vì chưa được xác định quốc tịch Việt Nam.

Để giải quyết vấn đề quốc tịch cho những người không quốc tịch đã cư trú ổn định lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam, Điều 22 Luật quy định "Người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục hồ sơ do Chính phủ quy định".

Theo quy định của Luật thì những đối tượng này được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định. Quy định như vậy để Chính phủ chủ động trong việc giải quyết việc xin nhập quốc tịch Việt Nam cho đối tượng này theo một trình tự, thủ tục đơn giản, nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ đúng thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam. Quy định này sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết một lần trong một thời hạn nhất định những tồn đọng lâu nay về vấn đề quốc tịch với đối tượng là những người đã thường trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam cho đến thời điểm Luật này có hiệu lực.

4. Bổ sung trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch (các điều 21, 25, 29, 32 và 34)

Để luật hoá các quy định hiện hành về quốc tịch của các văn bản dưới luật, Luật bổ sung các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch nhằm cải cách thủ tục hành chính, công khai, minh bạch hoá các trình tự, thủ tục này; quy định thời gian giải quyết hồ sơ ở từng công đoạn trong quy trình, tương ứng với trách nhiệm và tính chất công việc phải giải quyết của từng cơ quan, rút ngắn đáng kể thời gian giải quyết các việc về quốc tịch, tạo điều kiện cho người dân có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các việc về quốc tịch.

So với Luật năm 1998, Luật năm 2008 đã bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch như: trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam; xin thôi quốc tịch Việt Nam; xin trở lại quốc tịch Việt Nam; tước quốc tịch Việt Nam; huỷ bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam. Đối với từng việc về quốc tịch, Luật quy định cụ thể hồ sơ gồm những giấy tờ gì (các Điều 20, Điều 24, Điều 28) và quy trình giải quyết hồ sơ từ cấp tỉnh đến cấp Trung ương. Theo đó, đối với những người muốn nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp nơi cư trú nếu cư trú ở trong nước; đối với người xin thôi quốc tịch Việt Nam hiện đang ở nước ngoài có thể nộp hồ sơ tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Sau đó Sở Tư pháp sẽ có văn bản đề nghị cơ quan Công an cấp tỉnh xác minh về nhân thân của người xin nhập, trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam. Sau khi nhận được kết quả xác minh của cơ quan Công an, Sở Tư pháp có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, kết luận và đề xuất ý kiến gửi Bộ Tư pháp. Riêng trường hợp người xin thôi quốc tịch Việt Nam gửi hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thì cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thẩm tra và chuyển hồ sơ về Bộ Ngoại giao để chuyển đến Bộ Tư pháp. Sau khi nhận được hồ sơ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chuyển đến, Bộ Tư pháp có trách nhiệm xử lý hồ sơ, làm các thủ tục cần thiết và báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.

Trong Luật năm 1998 chưa có quy trình giải quyết các việc về quốc tịch, mà các quy trình này được quy định tại Nghị định số 104/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 1998 của Chính phủ. Luật năm 2008 đã luật hoá các quy trình với trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết hồ sơ tại từng cơ quan một cách rõ ràng.

Đối với mỗi quy trình giải quyết về quốc tịch, Luật năm 2008 đều quy định cụ thể thời hạn giải quyết hồ sơ tại từng cơ quan; tổng thời gian giải quyết tại các cơ quan từ cấp tỉnh đến cấp Trung ương đối với việc nhập quốc tịch là 115 ngày (không kể thời gian bổ sung hồ sơ của người xin nhập quốc tịch), đối với việc xin trở lại quốc tịch Việt Nam là 85 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở trong nước) hoặc 70 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài), đối với việc xin thôi quốc tịch Việt Nam là 80 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở Sở Tư pháp) hoặc 65 ngày (trường hợp nộp hồ sơ tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài). Các thời hạn trên là thời gian giải quyết hồ sơ thực tế tại các cơ quan có thẩm quyền, không tính thời gian trung chuyển hồ sơ. Luật năm 1998 không quy định trình tự giải quyết từng việc cụ thể nhưng có quy định thời hạn giải quyết đơn yêu cầu về quốc tịch tại Điều 38, theo đó, thời hạn giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam là không quá 12 tháng, hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam không quá 6 tháng kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Như vậy, so với thời hạn được quy định trong Luật năm 1998, thời hạn giải quyết các việc về quốc tịch quy định trong Luật năm 2008 đã được rút ngắn đáng kể. Đây có thể coi là bước đột phá trong việc giải quyết hồ sơ quốc tịch, góp phần thực hiện công khai, minh bạch hoá các thủ tục hành chính và cải cách hành chính theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Việc quy định thời gian giải quyết hồ sơ ở từng công đoạn trong quy trình tạo điều kiện cho người dân có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các việc về quốc tịch.

5. Một số điểm mới khác

5.1. Quy định về "Quốc tịch Việt Nam"

Luật quốc tịch năm 2008 đã đưa ra khái niệm về "Quốc tịch Việt Nam" (Điều 1): "Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam".

5.2. Về giải thích từ ngữ (Điều 3)

Ngoài việc lược bỏ một số thuật ngữ đã được giải thích trong các luật chuyên ngành khác, Luật năm 2008 đã bổ sung giải thích cụm từ "Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài". Đây là một cụm từ được sử dụng nhiều trong Luật Quốc tịch nhưng các Luật quốc tịch trước đây chưa có sự giải thích rõ ràng, gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng Luật. Theo giải thích tại Điều 3 Luật năm 2008, "Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài".

5.3. Giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam (Điều 11)

Các giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã được quy định tại Điều 11 Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998. Tuy nhiên, Luật quốc tịch năm 2008 đã quy định cụ thể hơn và theo trình tự logic hợp lý hơn. Bên cạnh việc lược bỏ một số loại giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã được quy định trong Luật năm 1998, Luật quốc tịch năm 2008 còn bổ sung thêm một số giấy tờ khác: "Quyết định công nhận việc nuôi con.

SOURCE: CIVILLAWINFOR TỔNG HỢP TỪ TÀI LIỆU "QUỐC TỊCH VÀ LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM" CỦA HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ