HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ
Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề quốc tịch, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã rất quan tâm và coi trọng việc soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật về quốc tịch. Trong từng thời kỳ cách mạng, nhà nước ta đều ban hành các văn bản pháp luật quy định về quốc tịch cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, cho đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật về quốc tịch của nhà nước Việt Nam đã có một số lượng đáng kể, góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh của dân tộc, của nhân dân trong công cuộc giải phóng đất nước trước đây và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
1. Pháp luật quốc tịch Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến thời điểm Luật Quốc tịch năm 2008 có hiệu lực
Xét về mặt lập pháp, có thể phân sự phát triển của pháp luật Việt Nam về quốc tịch thành 2 giai đoạn: từ năm 1945 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến nay.
a) Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, với chính sách "chia để trị" của thực dân Pháp đất nước ta bị chia cắt thành ba miền với ba chế độ cai trị và hệ thống pháp luật khác nhau. Vấn đề quốc tịch và công dân vì thế không được quy định một cách rõ ràng trong các văn bản pháp luật.
Cách mạng tháng 8 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời. Lúc này, việc xác định một người có quốc tịch Việt Nam là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa chính trị to lớn để chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam. Chính vì thế, cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật về nhiều lĩnh vực khác nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 53/SL ngày 20 tháng 10 năm 1945 quy định quốc tịch Việt Nam.
Sắc lệnh số 53/SL ngay tại Điều 3 đã khẳng định quyền bình đẳng về quốc tịch Việt Nam giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam "Những dân tộc thiểu số ở nước Việt Nam như Thổ, Mán, Mường, Nùng, Kha, Lolo,v.v…, có trụ sở nhất định trên lĩnh thổ nước Việt Nam, đều là công dân Việt Nam".
Về có quốc tịch Việt Nam, Điều 2 của Sắc lệnh này quy định các trường hợp có quốc tịch Việt Nam do sinh ra:
"Những người thuộc một trong các hạng kể sau đây đều là công dân Việt Nam:
1- Cha là công dân Việt Nam;
2- Cha không rõ là ai hay không thuộc quốc tịch nào mà mẹ là công dân Việt Nam;
3- Đẻ ở trên lĩnh thổ nước Việt Nam mà cha mẹ không rõ là ai hay không thuộc một quốc tịch nào".
Theo quy định này, việc xác định quốc tịch của trẻ em mới sinh được dựa trên việc kết hợp nguyên tắc "Quyền huyết thống" và nguyên tắc "Quyền nơi sinh" để hạn chế tối đa việc trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam bị rơi vào tình trạng không quốc tịch.
Đồng thời, Sắc lệnh số 53/SL còn quy định về trường hợp có quốc tịch Việt Nam do phục hồi quốc tịch:
"Kể từ ngày ban hành sắc lệnh này, những người Việt Nam đã vào dân Pháp, sẽ coi là công dân Việt Nam.
Những người ấy phải đến khai bỏ quốc tịch Pháp ở phòng Hộ tịch Toà Thị chính của một trong những thành phố sau này: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Biên Hoà hay ở một trong những nơi mà Uỷ ban Bắc bộ, Trung bộ hay Nam bộ sẽ định sau" (Điều 4).
Thủ tục xin khai bỏ quốc tịch Pháp để trở lại quốc tịch Việt Nam lúc ấy được quy định rất đơn giản cho kịp ngày Tổng tuyển cử. Người nào không ra khai sẽ mất quyền bầu cử.
Cùng với việc quy định về các trường hợp có quốc tịch Việt Nam, Sắc lệnh số 53/SL còn quy định các trường hợp mất quốc tịch Việt Nam tại Điều 7. Công dân Việt Nam sẽ bị mất quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong các trường hợp:
1. Nhập một quốc tịch ngoại quốc;
2. Giữ một chức vụ gì ở ngoại quốc mà không chịu thôi, tuy đã được Chính phủ cảnh cáo;
3. Làm một việc gì phạm đến nền độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam.
Quy định về có quốc tịch do phục hồi quốc tịch cũng như các trường hợp mất quốc tịch Việt Nam cho thấy ngay từ thời kỳ này, nhà nước Việt Nam đã thực hiện chính sách một quốc tịch.
Tuy mới chỉ quy định một số vấn đề cơ bản nhất về quốc tịch nhưng Sắc lệnh 53/SL được ban hành trong thời điểm đất nước ta vừa mới ra đời nên có ý nghĩa chính trị to lớn, là bước chuẩn bị quan trọng cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Nhập quốc tịch Việt Nam cũng là một vấn đề rất quan trọng nhưng chưa được quy định trong Sắc lệnh số 53/SL. Vì vậy, ngày 07/12/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành Sắc lệnh số 73/SL quy định việc nhập quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh số 73/SL đã quy định điều kiện cụ thể đối với những người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch Việt Nam (Điều 1): "Những người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch Việt Nam phải có những điều kiện sau đây: 1- Đủ 18 tuổi; 2- Đã ở 10 năm trên đất nước Việt Nam; 3- Có trú quán nhất định trong nước Việt Nam; 4- Biết tiếng nói Việt Nam; 5- Có hạnh kiểm tốt; 6- Nếu có vợ hay chồng là người ngoại quốc, thì phải được người vợ hay chồng thoả thuận cho nhập quốc tịch Việt Nam".
Cách thức xin nhập quốc tịch Việt Nam cũng được quy định cụ thể: người xin phải đệ đơn lên Uỷ ban nhân dân tỉnh nơi mình ở, Uỷ ban tỉnh phải điều tra và cho ý kiến rồi gửi lên Uỷ ban Kỳ, Uỷ ban Kỳ phê ý kiến rồi gửi lên Bộ Tư pháp. Nếu Bộ Tư pháp chấp nhận thì ra sắc lệnh cho nhập quốc tịch Việt Nam (Điều 4 Sắc lệnh số 73/SL). Việc quy định cụ thể trình tự, thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam nhìn chung là đơn giản, thuận tiện cho dân.
Sắc lệnh số 73/SL còn quy định rõ "Người đã nhập quốc tịch Việt Nam được hưởng đủ quyền lợi và phải chịu tất cả trách nhiệm của một công dân Việt Nam" (Điều 3).
Tháng 12/1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, nhân dân ta lại bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy cam go, quyết liệt. Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký và ban hành Sắc lệnh số 215/SL ngày 20/8/1948 ấn định những quyền lợi đặc biệt cho những người ngoại quốc giúp vào cuộc kháng chiến Việt Nam. Theo đó, "những người có công trạng với cuộc kháng chiến thì được miễn điều kiện thời hạn định trong Sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 về sự xin gia nhập quốc tịch Việt Nam". Tại thời điểm này, cả nước ta đang tập trung sức người sức của cho cuộc kháng chiến chống Pháp, Sắc lệnh số 215/SL đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với những người ngoại quốc có công giúp vào cuộc kháng chiến Việt Nam.
Cùng với việc ban hành các sắc lệnh quy định về nhiều lĩnh vực khác nhau, sự ra đời của các sắc lệnh nói trên về quốc tịch đã đặt nền tảng pháp lý quan trọng cho việc hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về quốc tịch nói riêng và hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam nói chung.
Năm 1954, Hiệp định Geneve về Việt Nam được ký kết, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Ngày 14/12/1959, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký và ban hành Sắc lệnh số 51/SL bãi bỏ Điều 5, 6 Sắc lệnh 53/SL ngày 20/10/1945. Theo Sắc lệnh số 51/SL, "những phụ nữ Việt Nam lấy chồng có quốc tịch nước ngoài trước ngày ban hành Sắc lệnh này vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Người nào muốn theo quốc tịch của người chồng thì trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày ban hành Sắc lệnh này phải xin bỏ quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà cho phép". Quy định này xét dưới góc độ quyền công dân đã bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ, phù hợp với quy định tại Điều 9 Hiến pháp năm 1946 "đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện". Đồng thời cũng khẳng định, quyền có quốc tịch là quyền nhân thân của mỗi người, mỗi người đều có quyền quyết định lựa chọn quốc tịch cho mình, người đàn bà khi lấy chồng ngoại quốc vẫn có thể giữ quốc tịch gốc của mình nếu không có nguyện vọng theo quốc tịch của chồng. Ngược lại, trong trường hợp họ muốn theo quốc tịch của chồng thì phải xin bỏ quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ cho phép.
Từ năm 1960, theo Luật Tổ chức Chính phủ, trong thành phần của Chính phủ không có Bộ Tư pháp, các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp được chuyển giao cho Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao và một phần cho chính quyền địa phương. Về lĩnh vực quốc tịch, ngày 08/2/1971 Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ban hành Nghị quyết số 1043/NQ-TVQHK6 về việc xin thôi hoặc nhập quốc tịch Việt Nam, trong đó "giao cho Hội đồng Chính phủ xét và quyết định về những trường hợp cụ thể xin vào hoặc xin thôi quốc tịch Việt Nam".
Có thể khẳng định rằng, trước năm 1975, các vấn đề về quốc tịch chủ yếu được quy định trong một số sắc lệnh và nghị quyết nêu trên. Mỗi văn bản pháp luật chỉ giải quyết một vấn đề cụ thể do thực tiễn cách mạng lúc đó đặt ra. Mạc dù vậy, như đã phân tích ở trên, các văn bản đó đã thể hiện rõ quan điểm tiến bộ của Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề cơ bản về quốc tịch như: bình đẳng giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam về quốc tịch Việt Nam, bảo đảm quyền của cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam được có quốc tịch thông qua việc hạn chế tình trạng không quốc tịch, bình đẳng giữa các công dân Việt Nam với nhau về quyền và nghĩa vụ công dân, không kể người có quốc tịch gốc Việt Nam hay được nhập quốc tịch Việt Nam… Rõ ràng, các quy định về quốc tịch trong các văn bản trên đã đặt nền tảng ban đầu cho việc xây dựng và ban hành Luật quốc tịch Việt Nam ở giai đoạn sau.
b) Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi (30/4/1975), đất nước ta hoàn toàn độc lập, non sông thu về một mối. Tại kỳ họp thứ 7, phiên họp ngày 18/12/1980 Quốc hội khoá VI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức thông qua bản Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 1980 tại Điều 53 quy định: "Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo luật định". Lần đầu tiên, vấn đề quốc tịch của công dân Việt Nam được quy định trong Hiến pháp – văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988.
Tại kỳ họp thứ 3, ngày 28/6/1988 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/7/1988. Đây là đạo luật đầu tiên của nhà nước ta quy định khá đầy đủ các vấn đề về quốc tịch Việt Nam. Luật gồm 18 điều, chia thành 6 chương: Chương I: Những quy định chung; chương II: Xác định có quốc tịch Việt Nam; chương III: Mất quốc tịch, trở lại quốc tịch Việt Nam; chương IV: Quốc tịch trẻ em khi có sự thay đổi quốc tịch cha mẹ, quốc tịch con nuôi; chương V: Thẩm quyền giải quyết các vấn đề về quốc tịch; chương VI: Điều khoản cuối cùng. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 đã quy định rõ tại Điều 3: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam". Như vậy, Luật quốc tịch năm 1988 đã quy định nguyên tắc một quốc tịch triệt để. Tuy thế, Luật năm 1988 chưa quy định cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, do đó gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật cũng như để lại hậu quả pháp lý phức tạp trên thực tế.
Luật quốc tịch năm năm 1988 ra đời thay thế cho Sắc lệnh số 53/SL, Sắc lệnh số 73/SL, Điều 6 Sắc lệnh số 215/SL, Sắc lệnh số 51/SL và Nghị quyết số 1043-NQ/TVQH.
Để Luật quốc tịch 1988 thực sự đi vào cuộc sống, giải quyết được các vấn đề vướng mắc về quốc tịch Việt Nam, ngày 05/02/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 37/HĐBT quy định chi tiết thi hành Luật quốc tịch Việt Nam. Tiếp theo đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/1998/NĐ-CP ngày 14/01/1998 sửa đổi một số điều của Nghị định số 37/HĐBT. Nghị định số 37/HĐBT ngoài việc quy định chi tiết thi hành Luật quốc tịch còn quy định cụ thể thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch như: hồ sơ xin nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam; nơi nộp hồ sơ; thời hạn và quy trình giải quyết các việc về quốc tịch.
Có thể thấy, Luật quốc tịch Việt Nam 1988 đã luật hoá một cách chính thức các quy định về quốc tịch Việt Nam, giải quyết được một số tồn tại, vướng mắc trong thực tế về quốc tịch.
Tuy vậy, Luật quốc tịch năm 1988 được ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới nên đến giai đoạn sau những năm 1990 không đáp ứng được chủ trương hội nhập quốc tế. Sự phát triển kinh tế xã hội, xu hướng hội nhập quốc tế dẫn đến ngày càng có nhiều người nước ngoài vào làm ăn, sinh sống tại Viêt Nam, công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài…Thêm vào đó, sự ra đời của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995 đã đặt ra yêu cầu cần phải cập nhật, hoàn thiện các quy định pháp luật về quốc tịch.
Trên cơ sở đó, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X tại kỳ họp thứ 3 ngày 20/5/1998 đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam và Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999.
Để hướng dẫn thi hành và cụ thể hoá những quy định của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, Chính phủ và các cơ quan có liên quan đã ban hành một số văn bản dưới luật:
- Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998.
- Thông tư liên tịch số 08/1998/TTLT/BTC-BTP-BNG ngày 31/12/1998 của liên bộ Tài chính -Tư pháp – Ngoại giao hướng dẫn mức thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí giải quyết việc nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam và cấp giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam.
- Thông tư liên tịch số 09/1998/TTLT/BGDĐT-BTP ngày 31/12/1998 của Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Tư pháp hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận trình độ tiếng Việt cho người nước ngoài xin nhập quốc tịch Việt Nam.
- Quyết định số 60/1999/QĐ-TP-QT ngày 07/4/1999 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành mẫu giấy tờ về quốc tịch Việt Nam.
- Thông tư số 09/1999/TT-BTP ngày 07/4/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn việc cấp giấy xác nhận không có quốc tịch Việt Nam .
- Nghị định số 55/2000/NĐ-CP ngày 11/10/2000 của Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam.
Những nội dung cơ bản của Luật quốc tịch năm 1998.
So với Luật quốc tịch năm 1988, Luật quốc tịch năm 1998 vẫn giữ nguyên bố cục các chương (6 chương) nhưng tăng thêm 24 điều (42 điều so với Luật quốc tịch năm 1988 là 18 điều).
1. Quyền đối với quốc tịch và chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Hiến pháp năm 1992 tại Điều 49 ghi nhận "công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam", Bộ luật Dân sự ngày 28/10/1995 trong các quy định về quyền nhân thân của con người cũng khẳng định "Mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch…", Luật quốc tịch Việt Nam 1998 ngay tại Điều 1 đã quy định về quyền đối với quốc tịch: "1/ Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch. Công dân Việt Nam không ai bị tước quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại Điều 25 của Luật này. 2/ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam; mọi thành viên của các dân tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam".
Đối với mỗi cá nhân, quyền có quốc tịch là quyền nhân thân gắn liền với bản thân mỗi người, quyền đó chỉ bị mất trong những trường hợp luật định, hạn chế tối đa tình trạng không quốc tịch. Điều này hoàn toàn không phụ thuộc vào nguồn gốc dân tộc. Sự bình đẳng này còn thể hiện ở quy định "việc kết hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa công dân Việt nam với người nước ngoài không làm thay đổi quốc tịchViệt Nam của đương sự…" (Điều 9) cũng như "việc vợ hoặc chồng nhập hoặc mất quốc tịch Việt Nam không làm thay đổi quốc tịch của người kia" (Điều 10). Các quy định này đã từng được ghi nhận trong Luật quốc tịch năm 1988 và tiếp tục được duy trì trong Luật năm 1998.
Tại Điều 4, Luật quốc tịch năm 1998 còn quy định "Người có quốc tịch Việt Nam là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Quy định này mới được bổ sung so với Luật quốc tịch năm 1988.
Đặc biệt, so với Luật quốc tịch năm 1988, Luật quốc tịch năm 1998 đã bổ sung một số điều luật quy định về chính sách bảo hộ của nhà nước Việt Nam đối với người Việt Nam ở nước ngoài (Điều 5), chính sách đối với người gốc Việt Nam ở nước ngoài (Điều 6), chính sách đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài (Điều 7). Những quy định này phù hợp với chính sách của Đảng và nhà nước ta về đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sự gắn bó hơn nữa cả về mặt tình cảm cũng như mặt pháp lý giữa người Việt Nam ở nước ngoài với nhà nước Việt Nam.
2. Nguyên tắc một quốc tịch
Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 đã quy định nguyên tắc một quốc tịch triệt để tại Điều 3, đến Luật quốc tịch năm 1998 nguyên tắc một quốc tịch vẫn được ghi nhận nhưng ở mức độ "nới lỏng" hơn bằng cách bỏ từ "chỉ". Điều 3, Luật quốc tịch năm 1998 quy định "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam". Tình trạng hai hay nhiều quốc tịch là nguyên nhân gây ra những hậu quả pháp lý phức tạp như trong vấn đề thực hiện nghĩa vụ công dân đối với nhà nước, việc bảo hộ ngoại giao của nhà nước đối với công dân…Tuy nhiên, do sự xung đột pháp luật giữa các nước cũng như chính sách hội nhập quốc tế thì trên thực tế vẫn phát sinh tình trạng này. Pháp luật của một số nước mặc dù quy định công nhận công dân có một quốc tịch nhưng cũng không thể ngăn ngừa một cách triệt để tình trạng hai hay nhiều quốc tịch.
Luật quốc tịch năm 1998 cũng có một số quy định nhằm hạn chế sự phát sinh tình trạng hai quốc tịch như: người dưới 15 tuổi tìm thấy cha mẹ, cha hoặc mẹ, người giám hộ có quốc tịch nước ngoài thì không còn quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 19), công dân nước ngoài nhập quốc tịch Việt Nam thì không còn giữ quốc tịch nước ngoài trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định (khoản 3 Điều 20); ký kết điều ước quốc tế để hạn chế hai hoặc nhiều quốc tịch (Điều 41).
Tuy nhiên, nguyên tắc một quốc tịch vẫn là nguyên tắc mang tính hình thức. Vì trên thực tế, vẫn có nhiều trường hợp công dân Việt Nam đã nhập quốc tịch nước ngoài mà chưa thôi quốc tịch Việt Nam do pháp luật nước ngoài không bắt buộc phải từ bỏ quốc tịch gốc. Khi họ trở về Việt Nam đầu tư, làm ăn, họ chỉ sử dụng tư cách công dân của nước có lợi cho họ. Do đó, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong công tác quản lý. Hơn nữa, nguyên tắc một quốc tịch cũng không phản ánh được nguyện vọng của đông đảo kiều bào ta ở nước ngoài tuy đã được nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn mong muốn được giữ quốc tịch Việt Nam để tạo sự gắn bó, gần gũi với mảnh đất ruột thịt của mình.
Thực tiễn thực hiện nguyên tắc một quốc tịch đã đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu, xem xét lại nguyên tắc này để quy định cho phù hợp.
3. Có quốc tịch Việt Nam.
Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 tiếp tục kế thừa và hoàn thiện 5 căn cứ pháp lý có quốc tịch Việt Nam của Luật quốc tịch năm 1988, đó là: Do sinh ra theo quy định tại các điều 16,17,18 của Luật; được nhập quốc tịch Việt Nam; được trở lại quốc tịch Việt Nam; theo điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; các căn cứ quy định tại các Điều 19,28 và 30 của Luật.
Như vậy, căn cứ cơ bản để có quốc tịch Việt Nam là do sinh ra, do nhập và do được trở lại quốc tịch Việt Nam.
Về quốc tịch của trẻ em, Luật quốc tịch năm 1998 quy định dựa trên nguyên tắc "Quyền huyết thống" (Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là công dân Việt Nam – Điều 16, Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam – Điều 17) kết hợp với nguyên tắc "Quyền nơi sinh" (Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là người không quốc tịch – Điều 18, Quốc tịch của trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam – Điều 19). Các quy định về quốc tịch của trẻ em đã bảo đảm tối đa quyền có quốc tịch của trẻ em, điều này phù hợp với Luật Bảo vệ Chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng như Công ước Quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã tham gia.
Được nhập quốc tịch là một trong những căn cứ để có quốc tịch Việt Nam. Điều 20 Luật quốc tịch năm 1998 đã quy định các điều kiện để công dân nước ngoài và người không quốc tịch được nhập quốc tịch Việt Nam. So với 3 điều kiện quy định tại Điều 7 Luật quốc tịch năm 1988, Điều 20 Luật quốc tịch năm 1998 quy định đầy đủ hơn, đó là:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
c) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng xã hội Việt Nam;
d) Đã thường trú ở Việt Nam từ năm năm trở lên;
đ) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Để được nhập quốc tịch Việt Nam, công dân nước ngoài và người không quốc tịch phải đáp ứng đủ các điều kiện trên. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 20 có thể được miễn điều kiện về biết tiếng Việt, thời gian thường trú và khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Trở lại quốc tịch Việt Nam: Một người đã bị mất quốc tịch Việt Nam cũng có thể trở lại quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật quốc tịch năm 1998 và không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Ngoài ra, xuất phát từ yêu cầu thực tế, Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 còn quy định về "Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam" tại Điều 22 nhằm đáp ứng nguyện vọng của những người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam khi họ đầu tư về nước và muốn xác nhận có quốc tịch Việt Nam để được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định của Nhà nước Việt Nam.
4. Mất quốc tịch Việt Nam.
Quốc tịch là quyền nhân thân của mỗi con người. Quốc tịch chỉ bị mất khi người đó chết đi hoặc bị tước quốc tịch với tư cách là một biện pháp chế tài của một nước áp dụng với công dân của họ. Một người cũng có thể xin thôi quốc tịch của một nước để nhập quốc tịch của nước khác.
Luật năm 1998 quy định 4 trường hợp công dân Việt Nam bị mất quốc tịch Việt Nam: 1/ Được thôi quốc tịch Việt Nam; 2/ Bị tước quốc tịch Việt Nam; 3/ Theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; 4/ Trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19, Điều 26 và Điều 28 của Luật này.
Công dân Việt Nam muốn nhập quốc tịch nước ngoài và có nguyện vọng thôi quốc tịch Việt Nam (thể hiện bằng đơn ) thì có thể được thôi quốc tịch Việt Nam trừ một số trường hợp. Người xin thôi quốc tịch Việt Nam chưa được thôi quốc tịch Việt Nam nếu đang nợ thuế đối với Nhà nước hoặc một nghĩa vụ tài sản đối với cơ quan, tổ chức hoặc công dân Việt Nam; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; chưa chấp hành xong bản án, quyết định của Toà án Việt Nam (khoản 2 Điều 24). Các trường hợp này chỉ được thôi quốc tịch Việt Nam sau khi các hoàn cảnh trên chấm dứt. Người xin thôi quốc tịch Việt Nam không được thôi quốc tịch Việt Nam nếu việc thôi quốc tịch Việt Nam làm phương hại đến lợi ích quốc gia hoặc đối tượng xin thôi là cán bộ, công chức và những người đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân (khoản 3, 4 Điều 24).
Công dân Việt Nam cũng có thể bị mất quốc tịch Việt Nam do bị tước quốc tịch Việt Nam. Trường hợp công dân Việt Nam có hành động gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đối với công dân Việt Nam có quốc tịch gốc Việt Nam bị áp dụng biện pháp chế tài này nếu họ cư trú ngoài lãnh thổ Việt Nam; còn đối với những người không phải có quốc tịch gốc Việt Nam mà họ có quốc tịch Việt Nam do được nhập thì sẽ bị áp dụng biện pháp chế tài này không kể họ cư trú ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam (Điều 25).
Với con chưa thành niên, khi cha mẹ hoặc một trong hai người bị tước quốc tịch Việt Nam thì quốc tịch của con chưa thành niên không thay đổi (Điều 29).
5. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch.
Từ một điều luật duy nhất của Luật năm 1988, Luật quốc tịch năm 1998 đã quy định đầy đủ, chi tiết hơn về thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch với 10 điều luật. Trong đó đã quy định rõ thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài về quốc tịch. Đồng thời, Luật cũng quy định về nơi nộp đơn, thời hạn giải quyết đơn yêu cầu về quốc tịch, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về quốc tịch. Các quy định đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, giúp họ thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ của mình về quốc tịch.
2. Giới thiệu Luật Quốc tịch năm 2008
a. Sự cần thiết của sửa đổi Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998
Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 được Quốc hội khoá X nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/5/1998 tại kỳ họp thứ 3 (sau đây gọi là Luật quốc tịch năm 1998) là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về quốc tịch của Nhà nước ta. Luật quốc tịch năm 1998 đã điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quốc tịch như: quyền của cá nhân đối với quốc tịch, nguyên tắc một quốc tịch, hạn chế tình trạng không quốc tịch, quốc tịch của vợ và chồng, các căn cứ xác định người có quốc tịch Việt Nam, mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi; thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch. Sau hơn 9 năm thực hiện, Luật quốc tịch năm 1998 đã thực sự đi vào cuộc sống, phát huy vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định người có quốc tịch Việt Nam, cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam, thực hiện chính sách bảo hộ của Nhà nước ta đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài… Luật quốc tịch năm 1998 đã góp phần quan trọng vào việc hình thành mối quan hệ gắn bó giữa công dân Việt Nam với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, Luật quốc tịch năm 1998 cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập sau đây:
Một là, nguyên tắc một quốc tịch quy định tại Điều 3 là cứng nhắc, bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế, chưa thật phù hợp với nguyện vọng của kiều bào ta ở nước ngoài và thực sự khó khăn trong triển khai thực hiện trên thực tế.
Nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 Luật quốc tịch năm 1998: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam". Tuy nhiên, do thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc này (cơ chế đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam khi đương sự chọn hoặc nhập quốc tịch nước ngoài) nên trên thực tế đã nảy sinh hệ quả là công dân Việt Nam định cư ở một số nước mà ở đó khi nhập quốc tịch pháp luật của nước sở tại không bắt buộc phải thôi quốc tịch Việt Nam dẫn đến một số lượng khá đông người Việt Nam định cư ở nước ngoài rơi vào tình trạng vừa có quốc tịch nước sở tại, vừa có quốc tịch Việt Nam. Thêm vào đó, trong khi Việt Nam quy định nguyên tắc xác định quốc tịch theo huyết thống thì luật quốc tịch một số nước lại xác định quốc tịch theo nơi sinh, sự xung đột pháp lý này cũng là lý do làm tăng thêm số người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch. Vì vậy, sự cứng nhắc của nguyên tắc một quốc tịch trong Luật quốc tịch năm 1998 đã làm cho các cơ quan nhà nước Việt Nam gặp nhiều khó khăn, lúng túng, thậm chí bị bó tay khi giải quyết các vụ việc cụ thể có liên quan đến quốc tịch.
Hơn nữa, nguyên tắc một quốc tịch theo Luật quốc tịch năm 1998 thực sự chưa phản ánh đúng nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đại đa số kiều bào ta dù phải rời Tổ quốc do các hoàn cảnh khác nhau, nhưng vẫn có nguyện vọng thiết tha được gắn bó với quê hương nên không muốn bị mất quốc tịch Việt Nam khi nhập quốc tịch nước sở tại.
Từ những vấn đề đã nêu ở trên, yêu cầu bức xúc đặt ra là cần phải cân nhắc sửa đổi nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 Luật quốc tịch 1998 cho phù hợp với tình hình thực tế.
Hai là, Luật quốc tịch năm 1998 chưa có cơ chế hữu hiệu, khả thi để thực hiện một chủ trương quan trọng là hạn chế tình trạng không quốc tịch ở nước ta.
Thực tế hiện nay số công dân nước ngoài, người không quốc tịch, người không rõ quốc tịch cư trú trên lãnh thổ nước ta là tương đối nhiều, việc giải quyết quốc tịch cho họ gặp rất nhiều khó khăn và trong nhiều trường hợp không thể giải quyết được. Ngoài ra, việc hoạch định lại biên giới giữa Việt Nam và các nước láng giềng trong những năm qua cũng dẫn đến hệ quả là một bộ phận khá lớn dân cư dọc biên giới tuy đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam nhưng chưa được nhập quốc tịch Việt Nam. Lý do là, phần lớn trong số họ không có giấy tờ tuỳ thân để xác định tình trạng quốc tịch, trình độ văn hoá rất thấp thậm chí không biết chữ, điều kiện kinh tế lại khó khăn, do đó nếu cứ buộc họ làm thủ tục nhập quốc tịch theo đúng quy định của Luật quốc tịch năm 1998 là không khả thi. Thực trạng này không những làm cho cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn, mà còn làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong việc quản lý dân cư dọc biên giới.
Để giải quyết vấn đề tồn đọng nêu trên về quốc tịch, cần phải quy định một thủ tục sát với yêu cầu thực tế hơn.
Ba là, cơ chế quản lý nhà nước về quốc tịch còn bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Theo quy định của Luật quốc tịch năm 1998, có nhiều cơ quan khác nhau có thẩm quyền tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề quốc tịch, nhưng việc phân định trách nhiệm và quyền hạn có nhiều điểm chưa cụ thể, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ dẫn đến tình trạng chậm trễ trong giải quyết các việc về quốc tịch, chia cắt về thông tin, yếu kém về thống kê quốc tịch. Đến nay chưa lập được cơ sở giữ liệu quốc gia về quốc tịch là một thiếu sót lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch. Mặt khác, đối với những người Việt Nam định cư ở nước ngoài do thiếu cơ chế đăng ký quốc tịch nên thực sự chúng ta chưa nắm được tình trạng quốc tịch của hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài để có chính sách quản lý và bảo hộ.
Hơn nữa, so với bối cảnh tại thời điểm ban hành Luật quốc tịch năm 1998, hiện nay đất nước ta đã có nhiều thay đổi lớn, quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội; uy tín và vị thế quốc tế của nước ta ngày càng nâng cao. Nước ta đã và đang hội nhập sâu hơn vào đời sống kinh tế quốc tế (là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc). Thành tựu về phát triển kinh tế – xã hội trong hơn 20 năm đổi mới đã đưa nước ta tới ngưỡng cửa thoát nghèo, có thêm điều kiện để bảo đảm tốt hơn cho công dân được hưởng đầy đủ các quyền do pháp luật quy định, trong đó quyền có quốc tịch là một trong những quyền cơ bản của công dân. Đồng thời, phải nói rằng với sự phát triển của khoa học pháp lý, tư duy pháp lý cũng có nhiều đổi mới, tiếp cận gần hơn với các giá trị phổ biến của thế giới.
Đứng trước tình hình đó, việc sửa đổi Luật Quốc tịch là rất cần thiết nhằm khắc phục những điểm hạn chế của Luật Quốc tịch năm năm 1998, qua đó thể hiện rõ chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quốc tịch là phát huy truyền thống nguyên tắc một quốc tịch, hạn chế tình trạng hai hay nhiều quốc tịch đối với công dân sống trên lãnh thổ Việt Nam; pháp lý hoá sự tồn tại thực tế của tình trạng hai quốc tịch đối với một bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài, xác định người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; xác định rõ một số trường hợp ngoại lệ khi nhập quốc tịch Việt Nam không phải thôi quốc tịch gốc; tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác quốc tịch; thiết lập cơ chế giải quyết những tồn đọng về tình trạng người không quốc tịch, làm ăn, sinh sống ổn định trên lãnh thổ Việt Nam; xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan trong việc quản lý, giải quyết các việc về quốc tịch, kế thừa và cụ thể hoá những quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch, xây dựng cơ chế tháo gỡ những vướng mắc, tồn đọng trong thực tiễn giải quyết các công việc về quốc tịch.
Trong bối cảnh như vậy, Bộ Chính trị đã có sự đánh giá đúng đắn về các chính sách của nhà nước ta đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài: "các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa được quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ, công tác bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức; các chính sách, văn bản pháp luật chưa đồng bộ, chưa thể hiện đầy đủ tinh thần đại đoàn kết dân tộc, chưa khuyến khích mạnh mẽ người Việt Nam định cư ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước" (trích Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài). Do đó, việc xây dựng và ban hành Luật quốc tịch (sửa đổi) là cần thiết, góp phần quan trọng vào việc thể chế hoá và bảo đảm thực hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta coi người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước.
Nhằm mục đích này, ngày 13-11-2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa 12 đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam (sửa đổi). Luật đã được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 28-11-2008. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2009.
b. Bố cục của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 gồm 6 chương, 44 điều, cụ thể như sau:
- Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 12 ).
Chương này quy định các vấn đề chung về quốc tịch Việt Nam; quyền đối với quốc tịch; nguyên tắc quốc tịch; quan hệ giữa Nhà nước và công dân; bảo hộ đối với công dân; chính sách đối với người gốc Việt Nam; hạn chế tình trạng không quốc tịch; giữ quốc tịch khi kết hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật; giữ quốc tịch khi quốc tịch của vợ hoặc chồng thay đổi; giấy tờ chứng minh quốc tịch và giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài.
- Chương II: Có quốc tịch Việt Nam (từ Điều 13 đến Điều 25)
Chương này quy định về người có quốc tịch Việt Nam; căn cứ xác định quốc tịch; quốc tịch của trẻ em; các điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam; trình tự, thủ tục và hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam của người không quốc tịch cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam.
- Chương III: Mất quốc tịch Việt Nam (từ Điều 26 đến Điều 34)
Chương này quy định về căn cứ mất quốc tịch Việt Nam; các điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam, tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
- Chương IV: Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi (từ Điều 35 đến Điều 37)
Chương này quy định về quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ được nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam hoặc bị tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
- Chương V: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quốc tịch (từ Điều 38 đến Điều 41)
Chương này quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; Vấn đề thông báo và đăng tải kết quả giải quyết các việc về quốc tịch.
- Chương VI: Điều khoản thi hành (từ Điều 42 đến Điều 44)
Chương này quy định về điều khoản chuyển tiếp đối với việc giải quyết hồ sơ các việc về quốc tịch được tiếp nhận trước ngày Luật này có hiệu lực; Hiệu lực thi hành của Luật; việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
c. Những nội dung mới (của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008) so với Luật Quốc tịch Việt nam năm 1998
So với luật Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, Luật quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) năm 2008 có một số nội dung mới sau đây:
1. Về nguyên tắc quốc tịch (Điều 4)
"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác."
So sánh với "nguyên tắc một quốc tịch" của Luật quốc tịch năm 1998, thì "nguyên tắc quốc tịch" trong Luật Quốc tịch năm 2008 có sự mềm dẻo hơn. Nếu như ở Luật năm 1998 có ghi là "nguyên tắc một quốc tịch" thì đến Luật năm 2008 đã bỏ bớt từ "một", chỉ còn là "nguyên tắc quốc tịch". Ngoài nội dung đã quy định trong Luật năm 1998 "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam", Luật năm 2008 còn bổ sung thêm một điểm mới quan trọng "trừ trường hợp Luật này có quy định khác". Như vậy Luật tiếp tục khẳng định nguyên tắc một quốc tịch, nhưng cũng công nhận có những trường hợp ngoại lệ vừa có quốc tịch Việt Nam, đồng thời có quốc tịch nước ngoài được quy định cụ thể trong các điều luật. Việc khẳng định một số ngoại lệ có thể có hai quốc tịch không có nghĩa từ bỏ nguyên tắc một quốc tịch mà chỉ sửa đổi nguyên tắc này cho mềm dẻo hơn, phù hợp hơn với thực tế biến động dân cư và trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, quy định này cũng phù hợp với thực tiễn giao lưu quốc tế; nhiều nước trước đây thực hiện chính sách một quốc tịch cứng, mới đây đã sửa đổi theo hướng mềm dẻo hơn là vừa khẳng định nguyên tắc một quốc tịch nhưng có mở rộng ngoại lệ hai quốc tịch (như Nga, Đức, Mê-hi-cô…).
Những trường hợp ngoại lệ nêu trên là những trường hợp đặc biệt, được Chủ tịch nước cho phép khi xin nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 3 điều 19), xin trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 5 Điều 23). Người xin nhập quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam thuộc một trong những trường hợp như là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam, người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, được trở lại quốc tịch Việt Nam mà không phải thôi quốc tịch nước ngoài, trong trường hợp đặc biệt, được Chủ tịch nước cho phép. Ngoài ra, Luật còn quy định có những trường hợp có thể có hai quốc tịch, đó là trường hợp quốc tịch của trẻ em là con nuôi (Điều 37), trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng vẫn mong muốn giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 13).
2. Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam (Điều 13)
Điều 13 quy định về việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam:
"1. Người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật này có hiệu lực và người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này;
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn có quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam".
Quy định này mới được bổ sung, nhằm thể chế hoá Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; để thực hiện chủ trương khép lại quá khứ, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn kết cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài với cộng đồng dân tộc Việt Nam, xác định người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình, quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước. Quy định này cũng để làm rõ hơn việc những người vẫn còn có quốc tịch Việt Nam đã được quy định tại khoản 1 Điều này. Mặt khác, trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch của nước sở tại thì họ có quyền giữ quốc tịch Việt Nam nếu pháp luật về quốc tịch của nước đó cho phép công dân có hai quốc tịch. Trên thực tế, đối với bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài, việc phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là để xác định rõ ràng tình trạng quốc tịch của họ giúp cho công tác quản lý quốc tịch và bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài hiệu quả hơn. Đây là một quy định mới hoàn toàn so với Luật Quốc tịch năm 1998.
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra chủ trương tăng cường bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế những năm qua cho thấy, do không xác định được chính xác những ai trong số hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn giữ quốc tịch Việt Nam nên công tác quản lý quốc tịch, quản lý công dân cũng như thực hiện nhiệm vụ bảo hộ công dân của Nhà nước ta ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là phù hợp với nguyện vọng của bà con ở nước ngoài, là giải pháp cụ thể để trong một thời gian nhất định Nhà nước ta xác định được rõ ràng những người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn muốn giữ quốc tịch Việt Nam, qua đó xác định đúng tình trạng quốc tịch của họ, tạo điều kiện để làm tốt công tác quản lý về quốc tịch.
Khi Luật có hiệu lực, những người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn giữ quốc tịch Việt Nam thì phải đến đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở khu vực gần nhất. Nếu hết thời hạn 5 năm mà không làm thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam thì người đó đương nhiên bị mất quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 3 Điều 26; sau này, nều người đó muốn có quốc tịch Việt Nam thì phải qua thủ tục xin trở lại quốc tịch Việt Nam.
3. Giải quyết vấn đề nhập quốc tịch Việt Nam đối với người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam
Tình trạng người không quốc tịch đang thường trú trên lãnh thổ nước ta chủ yếu tập trung ở một số tỉnh, thành phố phía Nam, Tây Nguyên, các tỉnh biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Do nước ta có chung đường biên giới trên đất liền với ba nước láng giềng, qua nhiều năm chiến tranh nên việc di cư tự do qua biên giới đã diễn ra dễ dàng và kéo dài. Trải qua nhiều năm cư trú, làm ăn, sinh sống ổn định trên lãnh thổ nước ta, đến nay số cư dân này đã thực sự hoà nhập vào cộng đồng người Việt về mọi mặt đời sống: sản xuất, sinh hoạt, học tập, hôn nhân… Nghề nghiệp của họ chủ yếu là làm ruộng, làm rẫy, một số ít kinh doanh buôn bán nhỏ. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, những người này cũng như các con, cháu của họ chưa được hưởng quy chế công dân Việt Nam vì chưa được xác định quốc tịch Việt Nam.
Để giải quyết vấn đề quốc tịch cho những người không quốc tịch đã cư trú ổn định lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam, Điều 22 Luật quy định "Người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định".
Theo quy định của Luật thì những đối tượng này được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định. Quy định như vậy để Chính phủ chủ động trong việc giải quyết việc xin nhập quốc tịch Việt Nam cho đối tượng này theo một trình tự, thủ tục đơn giản, nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ đúng thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam. Quy định này sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết một lần trong một thời hạn nhất định những tồn đọng lâu nay về vấn đề quốc tịch với đối tượng là những người đã thường trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam cho đến thời điểm Luật này có hiệu lực.
4. Bổ sung trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch (các điều 21, 25, 29, 32 và 34)
Để luật hoá các quy định hiện hành về quốc tịch của các văn bản dưới luật, Luật bổ sung các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch nhằm cải cách thủ tục hành chính, công khai, minh bạch hoá các trình tự, thủ tục này; quy định thời gian giải quyết hồ sơ ở từng công đoạn trong quy trình, tương ứng với trách nhiệm và tính chất công việc phải giải quyết của từng cơ quan, rút ngắn đáng kể thời gian giải quyết các việc về quốc tịch, tạo điều kiện cho người dân có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các việc về quốc tịch.
So với Luật năm 1998, Luật năm 2008 đã bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch như: trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam; xin thôi quốc tịch Việt Nam; xin trở lại quốc tịch Việt Nam; tước quốc tịch Việt Nam; huỷ bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam. Đối với từng việc về quốc tịch, Luật quy định cụ thể hồ sơ gồm những giấy tờ gì (các Điều 20, Điều 24, Điều 28) và quy trình giải quyết hồ sơ từ cấp tỉnh đến cấp Trung ương. Theo đó, đối với những người muốn nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp nơi cư trú nếu cư trú ở trong nước; đối với người xin thôi quốc tịch Việt Nam hiện đang ở nước ngoài có thể nộp hồ sơ tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Sau đó Sở Tư pháp sẽ có văn bản đề nghị cơ quan Công an cấp tỉnh xác minh về nhân thân của người xin nhập, trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam. Sau khi nhận được kết quả xác minh của cơ quan Công an, Sở Tư pháp có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, kết luận và đề xuất ý kiến gửi Bộ Tư pháp. Riêng trường hợp người xin thôi quốc tịch Việt Nam gửi hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thì cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thẩm tra và chuyển hồ sơ về Bộ Ngoại giao để chuyển đến Bộ Tư pháp. Sau khi nhận được hồ sơ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chuyển đến, Bộ Tư pháp có trách nhiệm xử lý hồ sơ, làm các thủ tục cần thiết và báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.
Trong Luật năm 1998 chưa có quy trình giải quyết các việc về quốc tịch, mà các quy trình này được quy định tại Nghị định số 104/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 1998 của Chính phủ. Luật năm 2008 đã luật hoá các quy trình với trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết hồ sơ tại từng cơ quan một cách rõ ràng.
Đối với mỗi quy trình giải quyết về quốc tịch, Luật năm 2008 đều quy định cụ thể thời hạn giải quyết hồ sơ tại từng cơ quan; tổng thời gian giải quyết tại các cơ quan từ cấp tỉnh đến cấp Trung ương đối với việc nhập quốc tịch là 115 ngày (không kể thời gian bổ sung hồ sơ của người xin nhập quốc tịch), đối với việc xin trở lại quốc tịch Việt Nam là 85 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở trong nước) hoặc 70 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài), đối với việc xin thôi quốc tịch Việt Nam là 80 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở Sở Tư pháp) hoặc 65 ngày (trường hợp nộp hồ sơ tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài). Các thời hạn trên là thời gian giải quyết hồ sơ thực tế tại các cơ quan có thẩm quyền, không tính thời gian trung chuyển hồ sơ. Luật năm 1998 không quy định trình tự giải quyết từng việc cụ thể nhưng có quy định thời hạn giải quyết đơn yêu cầu về quốc tịch tại Điều 38, theo đó, thời hạn giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam là không quá 12 tháng, hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam không quá 6 tháng kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Như vậy, so với thời hạn được quy định trong Luật năm 1998, thời hạn giải quyết các việc về quốc tịch quy định trong Luật năm 2008 đã được rút ngắn đáng kể. Đây có thể coi là bước đột phá trong việc giải quyết hồ sơ quốc tịch, góp phần thực hiện công khai, minh bạch hoá các thủ tục hành chính và cải cách hành chính theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Việc quy định thời gian giải quyết hồ sơ ở từng công đoạn trong quy trình tạo điều kiện cho người dân có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các việc về quốc tịch.
5. Một số điểm mới khác
5.1. Quy định về "Quốc tịch Việt Nam"
Luật quốc tịch năm 2008 đã đưa ra khái niệm về "Quốc tịch Việt Nam" (Điều 1): "Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam".
5.2. Về giải thích từ ngữ (Điều 3)
Ngoài việc lược bỏ một số thuật ngữ đã được giải thích trong các luật chuyên ngành khác, Luật năm 2008 đã bổ sung giải thích cụm từ "Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài". Đây là một cụm từ được sử dụng nhiều trong Luật Quốc tịch nhưng các Luật quốc tịch trước đây chưa có sự giải thích rõ ràng, gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng Luật. Theo giải thích tại Điều 3 Luật năm 2008, "Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài".
5.3. Giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam (Điều 11)
Các giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã được quy định tại Điều 11 Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998. Tuy nhiên, Luật quốc tịch năm 2008 đã quy định cụ thể hơn và theo trình tự logic hợp lý hơn. Bên cạnh việc lược bỏ một số loại giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã được quy định trong Luật năm 1998, Luật quốc tịch năm 2008 còn bổ sung thêm một số giấy tờ khác: "Quyết định công nhận việc nuôi con.
SOURCE: CIVILLAWINFOR TỔNG HỢP TỪ TÀI LIỆU "QUỐC TỊCH VÀ LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM" CỦA HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ